
phạm tội có tổ chức là đồng phạm phức tạp
1. Tội phạm có tổ chức là gì?
Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể hơn, Khoản 2 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã chỉ ra các quy định pháp luật liên quan đến khái niệm tội phạm có tổ chức, được hiểu một cách đơn giản là: một dạng tội phạm có tổ chức. thực hiện hành vi trái pháp luật của một nhóm người, có sự liên kết chặt chẽ, cấu kết giữa nhiều người với nhau để thực hiện một hành vi phạm tội có tính chất của hình thức đồng phạm.
Tuy nhiên, tội phạm có tổ chức là dạng đồng phạm đặc biệt hơn so với dạng đồng phạm thông thường. Trong khi hình thức đồng phạm phổ biến có thể đơn giản là nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật, thì tội phạm có tổ chức phức tạp hơn, tinh vi hơn, có tính chất đặc thù. Đáng chú ý, giữa các thủ phạm có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình thực hiện tội phạm. . Sự câu kết chặt chẽ của đồng phạm thể hiện ở nhiều yếu tố, dấu hiệu cấu thành được đặc trưng bởi dấu hiệu chủ quan và khách quan, tội phạm có tổ chức kết hợp cả mặt chủ quan và sự liên kết thể hiện sự ăn chia, phân công nhiệm vụ, vai trò cụ thể của từng người trong nhóm tội phạm.
Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm, có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 BLHS). Như vậy, tội phạm có tổ chức là một loại đồng phạm. Vì phạm tội có tổ chức đều có những dấu hiệu khách quan và chủ quan giống như những người đồng phạm thông thường.
Tội phạm có tổ chức là một dạng đồng phạm đặc biệt, vì tội phạm có tổ chức ngoài các dấu hiệu đồng phạm thông thường, đồng phạm có tổ chức còn có đặc điểm cấu kết chặt chẽ với nhau. Sự liên kết chặt chẽ này vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu chủ quan, vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan; vừa thể hiện mức độ câu kết về mặt chủ quan, đồng thời cũng thể hiện mức độ phân chia vai trò, nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan của đồng phạm.
2. Mặt khách quan của tội phạm có tổ chức:
Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có vai trò phân công (đồng phạm phức tạp) có kế hoạch phạm tội cụ thể, rõ ràng hoặc không có kế hoạch nhưng mỗi người có phần nhất định và chịu trách nhiệm về tội phạm về phần mình. Nói cách khác, trong tội phạm có tổ chức, mỗi người được giao một nhiệm vụ cụ thể và tất cả cùng hợp tác để thực hiện tội phạm và che giấu tội phạm đó.
Mỗi thành viên có thể là người tổ chức, người điều hành, người giúp sức hoặc người thực hành, họ giúp đỡ nhau, tạo điều kiện cho nhau phạm tội, nhìn chung trong mọi trường hợp, vị trí của người tổ chức được phát huy, tách biệt với những người đồng phạm khác. Người tổ chức là người thiết kế, chỉ đạo hoạt động phạm tội, là người tạo nên sự thống nhất, tinh vi trong việc thực hiện tội phạm.
Tội phạm có tổ chức, như đã đề cập ở trên, là một dạng đồng phạm mới có tính chất phức tạp hơn, trong đó có sự phân công rõ ràng về vai trò, nhiệm vụ của từng người trong nhóm tội phạm. Quá trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật được lên kế hoạch chi tiết, cụ thể, thậm chí rất tinh vi, xảo quyệt nhằm che giấu hành vi vi phạm của mình hoặc hành vi xúi giục phạm tội có thể không diễn ra theo kế hoạch cụ thể nhưng vẫn rõ ràng. phân định rõ từng người chịu trách nhiệm và trách nhiệm đối với một công việc nhất định. Bằng cách phân công vai trò của từng người, sau đó xâu chuỗi và kết nối trong một kế hoạch tội phạm hoàn hảo, che giấu tội ác.
Về thành phần tham gia: Nhóm tội phạm có tổ chức có thể do nhiều cá nhân cấu thành, mỗi thành viên là người tổ chức, người điều hành, người giúp việc hoặc người thực hành. Họ tương trợ, hỗ trợ nhau, tạo cơ hội, tạo điều kiện về không gian, thời gian, công cụ hỗ trợ,… để mọi người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật một cách hoàn hảo nhất.
Trong mối quan hệ đồng phạm này, trách nhiệm của người tổ chức bao giờ cũng cao hơn, do đó vị thế của người giữ vai trò tổ chức luôn được đề cao, thường xuyên nắm quyền kiểm soát các đồng phạm khác. Như vậy, khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm có tổ chức thì người tổ chức cũng là người phải chịu trách nhiệm nặng nề nhất trong nhóm đồng phạm.
3. Mặt chủ quan của tội phạm có tổ chức:
Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng lõa có tư vấn trước nhưng ở mức độ cao. Giữa những người phạm tội đã thống nhất với nhau từ khâu chuẩn bị đến khâu kết thúc, kể cả những biện pháp lách luật, tạo nên trong lương tâm của mỗi người một kế hoạch phạm tội với sự phối hợp nhịp nhàng của các đồng phạm. Trong quá trình phạm tội, từ khâu chuẩn bị đến kết thúc, mỗi phạm nhân đều tỏ thái độ phục tùng trước kẻ tổ chức.
Sự phục tùng này có thể do nể nang, sợ hãi hoặc vì những quy định khắt khe, kỷ luật nghiêm khắc đối với những người không tuân theo mệnh lệnh. Mặt khác, trong ý thức chủ quan của mỗi người, mục đích phạm tội đã ăn sâu nên mỗi khi nảy sinh ý đồ mục đích phạm tội, các thành viên khác đều tiếp thu và cùng nhau bàn bạc để đạt được sự thuận lợi.
Dựa trên điều này, bằng cách tham gia vào tội phạm, mỗi người tìm cách hỗ trợ người khác và phục vụ cho các hoạt động của chính họ nhằm đạt được kết quả phạm tội mong muốn. Đặc điểm này cho phép chúng tôi phân biệt tội phạm có tổ chức với đồng phạm với thông báo trước.
Yếu tố chủ quan là xuất phát từ ý chí bên trong của nhóm người thực hiện hành vi, họ hoàn toàn thống nhất và đồng nhất với nhau khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Trong suốt quá trình gây án, bọn chúng đã chuẩn bị rất cẩn trọng, chặt chẽ và tỉ mỉ từ khi lên kế hoạch, ý tưởng cho đến khi thực hiện và hoàn thành.
Họ có thể điêu luyện, linh hoạt, phối hợp nhuần nhuyễn các bước tổ chức, thực hiện tội phạm, kể cả chứng cứ ngoại phạm để trốn tránh sự thẩm vấn, điều tra của cơ quan công an, điều tra viên. Mỗi người trong nhóm đồng phạm đều có thể nhận thức được hành vi của mình, có khả năng thấy trước hậu quả sẽ xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra theo đúng kế hoạch, mục đích và động cơ ban đầu.
Theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 quy định về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thì tại Điểm a Khoản 1 của Điều này, phạm tội có tổ chức là một tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với những người phạm tội so với mức án hình sự chính ban đầu. Đây là một điều hoàn toàn dễ hiểu vì bản chất của phạm tội có tổ chức đã mang những tính chất, yếu tố tinh vi, phức tạp hơn so với hành vi phạm tội của một cá nhân hoặc của nhóm người đồng phạm thông thường.
Tuy nhiên, riêng đối với các tội được quy định tại Điều 146 về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, Điều 147 Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm, Điều 232 Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, Điều 317 Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm thì phạm tội có tổ chức là một yếu tố mang tính chất định khung hình phạt.
Đối với trường hợp phạm tội có tổ chức thuộc những Điều này, thì những người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự áp dụng theo khung hình phạt và đương nhiên khi xét xử Tòa án sẽ không đưa phạm tội có tổ chức thành một tình tiết tăng nặng để áp dụng đối với họ nữa.a
Đối với các hành vi phạm tội có tổ chức, các tình tiết thường phức tạp, thủ đoạn tinh vi, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các đồng phạm với nhau nên gây nhiều khó khăn cho cơ quan điều tra, xét xử. Có những vụ án đặc biệt nghiêm trọng phải mất nhiều năm cơ quan điều tra mới có thể tìm ra được kẻ phạm tội. Không chỉ vậy, khi tiến hành xét xử các vụ án có yếu tố tội phạm có tổ chức, các Tòa án còn gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra các chế tài đối với tội phạm có tổ chức, bởi đối tượng này bao gồm người tổ chức, người thực hiện, người xúi giục và người giúp sức.
Điều luật không quy định mức hình phạt riêng đối với từng người mà chỉ căn cứ vào tính chất, mức độ, vai trò của từng người trong phạm tội có tổ chức. Người tổ chức thường là người có trách nhiệm cao nhất trong nhóm tội phạm vì người tổ chức giữ vai trò chủ mưu, người khởi xướng tội phạm, trực tiếp chỉ huy, điều khiển những người còn lại thực hiện hành vi phạm tội.
Nội dung bài viết:
Bình luận