Phạm nhân chấp hành an tại nhà tạm giữ

1.Giam giữ phạm nhân trong trại tạm giam  

 Theo quy định tại Khoản 2 Mục 3 Luật Thi hành án hình sự 2019 thì phạm nhân được quy định: 

 

 “2. Phạm nhân là người đang chấp hành hình phạt tù hoặc tù chung thân. 

 

 Quy định trên khẳng định không phải mọi hình phạt áp dụng đều là người bị kết án  được gọi là phạm nhân. 

 Người bị tạm giữ là người đang chấp hành hình phạt tù nên người bị tạm giữ phải chấp hành hình phạt tại trại tạm giam. Theo quy định tại khoản 3, mục 3 Luật Thi hành án hình sự 2019, trại tạm giam  bao gồm: 

 

 “3. Trại tạm giam  là nơi tổ chức quản lý, giam giữ và giáo dục, cải tạo người bị giam giữ, bao gồm trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ. 

 

 Tuy nhiên, không phải trại tạm giam nào cũng có phạm nhân chấp hành án. Theo quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT-BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 của Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao: 

 

 “Đối với nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện thường xuyên có từ 30 người bị tạm giữ, tạm giam trở lên được bố trí phạm nhân phục vụ việc nấu ăn, đưa cơm, vận chuyển quà và đồ dùng sinh hoạt, làm vệ sinh, sửa chữa nhà tạm giữ, phục vụ các yêu cầu nghiệp vụ giam giữ. Phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ phải giam giữ ở buồng giam riêng, có treo biển "Buồng quản lý phạm nhân".  

 Phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ được lấy từ số phạm nhân của phân trại quản lý phạm nhân trong trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, là người phạm tội lần đầu, bị xử phạt tù từ 36 tháng trở xuống; không phạm các tội: xâm phạm an ninh quốc gia; giết người; cướp tài sản; cưỡng đoạt tài sản; mua bán, tàng trữ vũ khí quân dụng; các tội phạm về ma túy. Giám đốc Công an cấp tỉnh quyết định đưa phạm nhân đến chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện.” 

 

 Đến nay, Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT-BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 của Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào thay thế, cũng như văn bản thông báo hết hiệu lực pháp luật. Nhưng quy định về phạm nhân phục vụ việc tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ theo Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLT-BCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 của Bộ Công an - Viện kiểm sát nhân dân tối cao lại không thống nhất so với quy định chung về phạm nhân phục vụ việc tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Khoản 2 Điều 195; Khoản 2 Điều 196 Luật Thi hành án hình sự năm 2019. 

  Tại Khoản 2 Điều 195; Khoản 2 Điều 196 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định: Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm giữ, tạm giam để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 05 năm trở xuống không phải là người dưới 18 tuổi, người nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện ma túy để phục vụ việc tạm giữ, tạm giam. Số lượng người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giữ, tạm giam được tính theo tỷ lệ trên tổng số người bị tạm giữ, tạm giam nhưng không vượt quá 15%.  

 Việc quy định hai mức phạt tù làm căn cứ để đưa người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giữ, tạm giam là chưa phù hợp. Căn cứ Khoản 2 Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam về nhiệm vụ nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam quy định: “Đối với nhà tạm giữ Công an cấp huyện và trại tạm giam, ngoài nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều này còn có nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.” Như vậy, để thực hiện thống nhất thì các cơ quan tư pháp liên ngành Trung Ương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để thực hiện. 

  2.Một số quy định khác như việc giam giữ, phân loại phạm nhân được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 

 “Điều 30. giam giữ tù nhân 

 

  1. Trại giam  giam giữ phạm nhân như sau: 

 

phạm nhân chấp hành an tại nhà tạm giữ

phạm nhân chấp hành an tại nhà tạm giữ

 

a) Khu giam giữ người bị kết án  tù trên 15 năm, tù chung thân, người bị giam tái phạm nguy hiểm; 

 

b) Khu giam giữ người bị kết án phạt tù từ 15 năm trở xuống; phạm nhân bị kết án  tù trên 15 năm  được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù  còn lại dưới 15 năm; phạm nhân là người tái phạm nguy hiểm, đã chấp hành được một nửa hình phạt tù và  được giảm  án; 

 

c) Buồng kỷ luật  phạm nhân bị kỷ luật. 

Tại khu vực giam giữ quy định tại khoản 1 điều này, những người sau đây được biệt giam: 

 

a) Phạm nhân nữ; 

 

 (b) Người bị tạm giữ dưới 18 tuổi; 

 

c) Người bị tạm giữ là người nước ngoài; 

 

 (d) Người bị tạm giữ là người mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm; 

 

 đ) Người bị tạm giữ có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; 

 

 (e) Phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đi theo mẹ trong trại giam; 

 

g) Phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ phạm nhân. 

Tù nhân  đồng tính,  chuyển  giới hoặc không rõ danh tính có thể bị giam  riêng.  

Trong trại tạm giam, người bị tạm giữ quy định tại điểm a và điểm g khoản 2 Điều này được  giam  riêng. 

Trại viên được chia thành tổ, nhóm để lao động, học tập, sinh hoạt. Tuỳ theo tính chất của tội phạm, mức hình phạt, đặc điểm nhân thân của phạm nhân, kết quả chấp hành án, Giám thị trại giam hoặc Giám thị trại tạm giam quyết định việc phân loại, chuyển trại giam. . 

 

 Như vậy, người bị tạm giữ được phân loại, tạm giữ theo những tiêu chí cụ thể được quy định trong pháp luật về thi hành án hình sự và được phân khu giam giữ riêng biệt. Trong đó, quá trình chấp hành án phạt tù của phạm nhân cũng là một tiêu chí quan trọng, không chỉ là cơ sở để phân loại khu giam giữ  phạm nhân mà còn là cơ sở để phân loại phạm nhân chấp hành án phạt tù. , là một trong những điều kiện để được xét  giảm mức án phạt tù, tha tù trước thời hạn, cho hưởng án treo...




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo