1. Quy định chung về kỳ họp Quốc Hội

Tại  Quốc hội thảo luận dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Kì họp của Quốc hội được tổ chức thường lệ một năm hai lần do Uỷ ban thường vụ quốc hội triệu tập. Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết định của mình, Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường. Việc triệu tập các kì họp thường lệ của Quốc hội phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định và thông báo chậm nhất là ba mươi ngày (đối với các kỳ họp bất thường là bảy ngày) trước ngày khai mạc kì họp. Dự kiến chương trình làm việc của kì họp được gửi đến đại biểu Quốc hội cùng với quyết định triệu tập kì họp chậm nhất là mười lăm ngày trước khi Quốc hội họp, dự kiến chương trình kì họp thường lệ phải được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khoá mới được triệu tập chậm nhất là hai tháng kể từ ngày bầu cử đại biểu quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khoá trước khai mạc và chủ toạ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch Quốc hội khoá mới.

Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội. Kỳ họp là sự thể hiện trực tiếp, tập trung nhất quyền lực nhà nước với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; là hiện thân của trí tuệ tập thể của các đại biểu Quốc hội . Tại kỳ họp, Quốc hội thảo luận dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, của nhân dân; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Đại hội họp thường kỳ mỗi năm hai lần do Ủy ban Thường vụ Đại hội triệu tập. Quốc hội triệu tập kỳ họp đặc biệt khi có yêu cầu của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc trên một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội (Điều 83 Hiến pháp 2013).

2. Việc chuẩn bị và triệu tập kỳ họp Quốc hội

Để đảm bảo chất lượng của đại hội chi đoàn thì công tác chuẩn bị đại hội đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác chuẩn bị kỳ họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau liên quan đến một kỳ họp của Quốc hội như xây dựng chương trình trình Quốc hội, khảo sát, nghiên cứu, thu thập thông tin, dư luận trong nước... và do nhiều cơ quan thực hiện. Công tác chuẩn bị cho kỳ họp có sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước, hội đồng dân tộc và các ủy ban của quốc hội, cũng như sự tham gia của bản thân mỗi dân biểu.

Trước khi triệu tập kỳ họp của Quốc hội, Thường vụ Quốc hội phải dự kiến ​​chương trình làm việc của kỳ họp; rà soát việc chuẩn bị đề án và rà soát giai đoạn chuẩn bị. Dự kiến, Thường trực Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ trước sẽ xây dựng chương trình làm việc cho kỳ họp thứ nhất của Đại hội đại biểu toàn quốc nhiệm kỳ mới.

Dự kiến, chương trình kỳ họp phải được gửi đến các đại biểu Quốc hội xem xét, cho ý kiến ​​ít nhất một tháng trước khi Quốc hội họp.

Việc triệu tập kỳ họp thường kỳ của Quốc hội phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và thông báo chậm nhất là 30 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp (kỳ họp đặc biệt là bảy ngày). Chương trình kỳ họp Quốc hội dự kiến ​​được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng chậm nhất là 15 ngày trước ngày họp thường kỳ và ít nhất 4 ngày trước ngày họp toàn thể. Cuộc họp bất thường. Quyết định triệu tập kỳ họp được gửi đến đại biểu Quốc hội kèm theo dự kiến ​​chương trình kỳ họp.

Dự kiến ​​chương trình làm việc của đại hội được gửi đến các đại biểu của Đại hội kèm theo quyết định triệu tập đại hội. Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày Quốc hội họp, chương trình kỳ họp thường kỳ phải được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

3. Kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa Quốc hội

Hiến pháp 2013 quy định kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa mới được tổ chức trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và do Chủ tịch Quốc hội khóa trước khai mạc cho đến ngày bầu cử. Đại hội mới bầu Chủ tịch Quốc hội (Điều 83).

Kỳ họp đầu tiên của mỗi kỳ Đại hội có một vị trí đặc biệt quan trọng. Tại phiên họp đầu tiên của mỗi kỳ Đại hội, Quốc hội bầu ra một ủy ban đánh giá bổ nhiệm để xem xét tư cách của các đại biểu quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi kỳ họp Quốc hội, Quốc hội bầu ra người lãnh đạo cao nhất của đất nước. Đại hội bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước bằng phiếu kín; Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc, các Phó Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu toàn quốc; Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc thiểu số, Chủ tịch các Hội đồng của Quốc hội; Chủ tịch Ủy ban bầu cử, Tổng Kiểm toán Nhà nước; Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Phê chuẩn việc bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Quốc hội phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh theo đề nghị của Chủ tịch nước; phê chuẩn Ủy ban bầu cử quốc gia. Quốc hội cũng bầu ban thư ký cho mỗi kỳ họp của Quốc hội.

4. Trình tự xem xét và thông qua các dự án tại kỳ họp Quốc hội

Tại kỳ họp, Quốc hội xem xét, thông qua các nội dung chương trình quốc gia, dự toán ngân sách quốc gia, các báo cáo, nội dung pháp luật và các nội dung khác theo trình tự sau đây:

1. Đệ trình dự án lên Quốc hội

Để Quốc hội xem xét, quyết định, cơ quan, cá nhân đề xuất hạng mục phải trình Quốc hội. Khi trình bày cần làm rõ yêu cầu xây dựng dự án, nội dung cơ bản của dự án, các bước chuẩn bị xây dựng, tài liệu tham khảo, dự thảo sửa đổi và toàn văn dự án.

2. Thẩm định dự án

Sau khi nghe cơ quan hoặc người giới thiệu dự án trình bày, Quốc hội nghe người phát ngôn của Ủy ban dân tộc hoặc Ủy ban dân tộc được chỉ định thẩm tra dự án báo cáo ý kiến ​​của Ủy ban dân tộc hoặc Ủy ban dân tộc của Quốc hội về dự án đó. Người thuyết trình phải nêu rõ điểm mạnh và điểm yếu của dự án và đưa ra ý kiến ​​về việc dự án có được chấp nhận hay không. Nếu trong đồ án có điểm nào cần khắc phục thì phải nêu rõ.

3. Đàm phán dự án

Tất cả các nội dung đều được Quốc hội xem xét, thảo luận theo tổ hoặc tập trung tại hội trường. Tùy theo mức độ phức tạp của vấn đề mà quyết định thảo luận nhóm hay hội trường. Một số mục phải được thảo luận trong các nhóm nhỏ và trong hội trường. Điều quan trọng nhất là phải tạo điều kiện để người đại diện được tự do phát biểu, bày tỏ chính kiến ​​của mình một cách đúng đắn, phản ánh đúng nhu cầu của quần chúng. Xem xét các vấn đề một cách toàn diện và chọn giải pháp tốt nhất để biểu quyết.

4. Bỏ phiếu cho dự án

Biểu quyết là hình thức thể hiện ý chí, quan điểm của đại biểu Quốc hội về một vấn đề, khoản mục, nghị quyết... Biểu quyết cũng là hình thức kết thúc thảo luận để đi đến quyết định cuối cùng.

Vấn đề biểu quyết và thể thức biểu quyết do Quốc hội quy định.

Luật, nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành; việc xây dựng Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội. Quốc hội hoặc bãi nhiệm đại biểu Quốc hội phải được trên hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội tán thành. (Điều 85). Hiến pháp 2013).

5. Vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn

Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, nó thực sự phát huy tác dụng tại các kì họp Quốc hội. Trong chương trình kì họp, Quốc hội dành thời gian thích đáng cho việc chất vấn và trả lời chất vấn.

Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.

Chất vấn cũng là một dạng câu hỏi nhưng chất vấn hoàn toàn khác câu hỏi bình thường. Nếu như câu hỏi bình thường được đặt ra chỉ nhằm mục đích để thu thập thông tin thì chất vấn được đặt ra nhằm để quy kết trách nhiệm. Vì vậy, vấn đề chất vẩn chỉ đặt ra khi đã được các đại biểu Quốc hội điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Khi chất vấn đã được nêu lên thì buộc các cơ quan hoặc người bị chất vấn phải trả lời và trả lời nghiêm túc.

Đối tượng bị chất vấn, thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước.

Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội hoặc tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ hợp Quốc hội; trường họp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.

Trong trường hợp đại biểu Quốc hội chưa đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có quyền chất vấn lại tại phiên họp của Quốc hội, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc gửi chất vấn bằng văn bản đến người bị chất vấn.

6. Hình thức họp Quốc hội

Quốc hội họp công khai. Khi Quốc hội họp công khai, công chúng có thể được đến dự theo giấy mời của Văn phòng Quốc hội. Các cơ quan thông tấn, báo chí được tham dự các phiên họp công khai của Quốc hội để phản ánh kịp thời, chính xác các hoạt động của Quốc hội.

Trong các trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội thì Quốc hội quyết định họp kín. Việc công bố nội dung các phiên họp kín do Chủ tịch nước cùng với Chủ tịch Quốc hội quyết định.

7. Các luật, nghị quyết của Quốc hội

Các luật, nghị quyết của Quốc hội phải được Chủ tịch Quốc hội kí chứng thực và Chủ tịch nước công bố chậm nhất là mười lâm ngày, kể từ ngày thông qua. Các luật, nghị quyết, lời tuyên bố, lời kêu gọi, thư, điện văn của Quốc hội, biên bản tóm tắt về kì họp của Quốc hội được đăng trên Công báo.