Đối với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, điều đầu tiên có thể xác định là chủ thể của quan hệ dân sự trong xã hội là các thể nhân, pháp nhân bình đẳng khi tham gia các quan hệ dân sự.
1. Nguyên tắc bình đẳng.
Đây là nguyên tắc hiến định và được ghi nhận cụ thể tại Khoản 1 Điều 3 BLDS 2015: “Mọi thể nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được phân biệt đối xử; được pháp luật bảo vệ bình đẳng về nhân thân và tài sản”. Bình đẳng trong quan hệ dân sự thể hiện:
Bình đẳng giữa các chủ thể, mọi thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng, tức là mọi thể nhân đều có năng lực dân sự như nhau, mọi pháp nhân đều có năng lực dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình. Nguyên tắc này được áp dụng đối với mọi chủ thể của quan hệ dân sự, kể cả giữa cơ quan Nhà nước với cá nhân trong quan hệ dân sự.
Bình đẳng về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, thành phần kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa và nghề nghiệp của các chủ thể. Các chủ thể không nên sử dụng sự khác biệt giữa các yếu tố này để đối xử bất bình đẳng với nhau. Không chủ thể nào có đặc quyền, đặc lợi hơn chủ thể khác trong quan hệ dân sự. Pháp luật nghiêm cấm các hành vi quyền lực của một bên đối với bên kia trong giao dịch dân sự. Được pháp luật bảo vệ, mọi thể nhân và pháp nhân cũng được pháp luật bảo vệ trong các vấn đề về quyền nhân thân và quyền tài sản.
Tại khoản 1 Điều 3 BLDS 2015 có ghi:
“Tất cả các thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng và không được sử dụng bất kỳ cơ sở nào để phân biệt đối xử; cũng được pháp luật bảo vệ về các quyền nhân thân và tài sản”.
Cơ sở cho sự bình đẳng này được rút ra từ Hiến pháp - đạo luật cơ bản của mọi bộ luật ở Việt Nam. Trong Hiến pháp 2013, các quyền tự do, thân thể và tài sản được ghi nhận, khẳng định và coi là quyền cơ bản của công dân.
Bình đẳng chỉ được đặt ra trong quá trình soạn thảo luật nên phải được coi là một “khái niệm chính trị - pháp lý”. Theo đó, bình đẳng trong quan hệ dân sự phải là bình đẳng về “quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc xác lập, thực hiện quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này nhấn mạnh các nội dung sau:
Bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau hay bằng nhau. Trong một số trường hợp, do tính chất quan trọng về mặt xã hội của vấn đề, Bộ luật Dân sự dành những quyền lợi và ưu tiên nhất định cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Ví dụ: trong trường hợp hợp đồng mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đề nghị hợp đồng mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản này - Khoản 2 Điều 405 BLDS 2015.
Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự là nguyên tắc rất quan trọng của pháp luật dân sự. Đó là nguyên tắc cơ bản được áp dụng trong các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và trong mọi thiết chế, quy phạm pháp luật dân sự. Đây cũng là nguyên tắc tiền đề để thể hiện trong các luật chuyên ngành như: Nhà nước bảo đảm quyền bình đẳng của công ty trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.2. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận.
Các bên trong quan hệ dân sự có quyền tự do, thỏa thuận theo pháp luật trong việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Khoản 2, Điều 3 BLDS 2015). Mọi cam kết và thỏa thuận hợp pháp đều được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Trong một hợp đồng, các bên có thỏa thuận về các điều khoản thực hiện nghĩa vụ, các thỏa thuận này có giá trị ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên trong hợp đồng.
Khi cam kết, thỏa thuận, các bên hoàn toàn tự nguyện, không ai được dùng thủ đoạn buộc người phải cam kết, thỏa thuận trái với ý muốn của mình. Mọi cam kết, thỏa thuận nếu không được sự đồng ý của các bên đều có thể bị tuyên bố vô hiệu. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội đều có hiệu lực đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng. Nguyên tắc này được ghi nhận:
“Các thể nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội đều có hiệu lực thi hành đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng” (khoản 2, khoản 3 BLDS 2015).
Để đảm bảo tính pháp lý và tạo môi trường lành mạnh, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội, các cam kết, thỏa thuận tự do, tự nguyện của các chủ thể được pháp luật bảo đảm, nếu những cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Nguyên tắc này cũng ghi nhận mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội đều có giá trị pháp lý đối với các bên và phải được các chủ thể khác tôn trọng.
Nói cách khác, sự tự do, cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội của các bên trong giao dịch dân sự có giá trị ràng buộc các bên. Ngoài ra, quyền tự do cam kết, thỏa thuận của các bên cũng được pháp luật bảo vệ, tức là các thể nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải tuân theo các cam kết, thỏa thuận này.
Trong trường hợp vi phạm nguyên tắc này thì giao dịch dân sự mà các bên tham gia sẽ bị coi là vô hiệu, nhưng sự vô hiệu này chỉ mang tính chất tương đối, nghĩa là hiệu lực của giao dịch này phụ thuộc vào sự lựa chọn, tự nguyện của các bên trong việc có thể sửa đổi hay không cam kết, thỏa thuận này.3. Nguyên tắc thiện chí trung thực.
Trong quan hệ dân sự, các bên phải hợp tác, giúp đỡ nhau để tạo lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của Nhà nước và xã hội. Ngoài ra, còn buộc các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để khắc phục, hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, trong quan hệ dân sự, các bên được coi là ngay tình, thiện chí. Nếu một bên cho rằng bên kia không ngay tình, không thiện chí thì phải có chứng cứ (khoản 3 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015).
Lòng nhân được hiểu là tính tầm thường, là mong muốn được toại nguyện, hoàn toàn tự nguyện. Trung thực được hiểu là tôn trọng tính khách quan, tôn trọng sự thật, không tạo ra thông tin, yếu tố bất lợi trong quá trình thực hiện giao dịch dân sự. Trong các quan hệ pháp luật dân sự sẽ có nhiều quan hệ mà nghĩa vụ của người này tương ứng với quyền của người kia nên chỉ cần con nợ thực hiện đầy đủ, đúng thì sẽ đảm bảo được quyền lợi của chủ nợ. Vì vậy, trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, chỉ cần mỗi chủ thể luôn cố gắng nỗ lực hết mình bằng hành động của mình nhằm mang lại lợi ích tối đa cho người có quyền thì đã tạo nên sự lý tưởng trong quan hệ dân sự.
Nguyên tắc thiện chí, trung thực không phải là nguyên tắc mới mà đã được ghi nhận từ lâu trong pháp luật dân sự. Nguyên tắc này hoàn toàn tương thích với nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể vì khi các chủ thể có địa vị pháp lý bình đẳng thì đương nhiên sự thiện chí, trung thực của mỗi chủ thể sẽ góp phần mang lại hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ của nhau.4. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 nêu nguyên tắc cơ bản nhất của pháp luật Việt Nam là quyền, nghĩa vụ dân sự phải được xác lập, thực hiện trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và quyền, lợi ích hợp pháp của người khác: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích hợp pháp của quốc gia, lợi ích công cộng của người khác”.
Đây là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hầu hết các bộ luật dân sự trên thế giới, nguyên tắc này không chỉ được quy định tại Khoản 4 Điều 3 BLDS 2015 mà còn được thể hiện trong các phần khác của BLDS.
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các chủ thể tham gia quan hệ này. Tuy nhiên, việc thực hiện hành vi dân sự không thể được thực hiện một cách tùy tiện mà phải được thực hiện trong khuôn khổ, giới hạn nhất định. Quyền của chủ thể này bị giới hạn bởi quyền của chủ thể khác, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Khi chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình mà gây thiệt hại cho chủ thể khác thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó.5. Nguyên tắc trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý nhưng trên hết là trách nhiệm của người phạm tội đối với người bị vi phạm. Người mắc nợ phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình nếu quyền và nghĩa vụ này xuất phát từ căn cứ pháp luật. Nếu không thực hiện thì họ sẽ tự chịu trách nhiệm và có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ và phải bồi thường thiệt hại (nếu có). Mỗi người tham gia phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình (điều 5 khoản 3 bộ luật dân sự).
Khi thực hiện các quyền của mình, các chủ thể nhận thức cơ bản là phải thực hiện nghiêm chỉnh, đúng phần nghĩa vụ của mình vì điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chủ thể vô tình hoặc cố ý không thực hiện đúng hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình dẫn đến những hậu quả bất lợi nhất định. Vì quan hệ dân sự là quan hệ pháp lý bình đẳng, tự do, tự nguyện nên đương nhiên khi gây thiệt hại cho người khác, khi làm cho người khác bị thiệt hại do hành vi của mình thì chủ thể trong quan hệ dân sự phải chịu trách nhiệm. Như vậy, trách nhiệm dân sự được hiểu là một dạng trách nhiệm pháp lý gây thiệt hại cho chủ thể sau khi chủ thể đó thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc quy định nguyên tắc tự chịu trách nhiệm thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta là khi cán bộ, công chức tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì lợi ích hợp pháp thuộc về chủ thể, nhưng hậu quả tác hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra thì chủ thể luôn phải tự chịu trách nhiệm.6. Chính sách tôn trọng đạo đức và truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Theo (khoản 1 Điều 7 BLDS 2015), về nguyên tắc, chính sách nhà nước không phải là nguyên tắc pháp luật dân sự nhưng có ảnh hưởng lớn đến nguyên tắc pháp luật dân sự. Đặc biệt là khi áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết tranh chấp (Khoản 2, Điều 7 BLDS). Trong việc xác lập và thực hiện các quyền dân sự, chủ thể phải tôn trọng truyền thống tốt đẹp, tôn trọng lề lối, phong tục tập quán của nhân dân...
Phong tục, tập quán, đạo đức, truyền thống tốt đẹp của nhân dân là cơ sở xã hội của pháp luật dân sự. Cơ sở pháp lý chỉ tồn tại và trường tồn nếu nó phù hợp với đạo đức tốt đẹp và truyền thống của dân tộc. Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự cũng phải dựa trên nền tảng của đạo lý, truyền thống này trên tinh thần tương thân, tương ái, “mình vì mọi người, mỗi người vì mình” nhằm tạo điều kiện cho người dân, cộng đồng dân cư thiếu điều kiện thiết thực thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
7. Chính sách khuyến khích hòa giải
Trong quan hệ dân sự, khuyến khích hòa giải giữa các bên theo quy định của pháp luật. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết tranh chấp dân sự.
Các nguyên tắc quy định tại Chương I - Phần thứ nhất của BLDS tạo thành một hệ thống chỉnh thể. Vì vậy, khi áp dụng và giải thích pháp luật phải được coi là một chỉnh thể thống nhất.
Nội dung bài viết:
Bình luận