"Tổ chức phi chính phủ" là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức, hiệp hội, ủy ban văn hóa xã hội, ủy ban từ thiện, tổ chức phi lợi nhuận hoặc pháp nhân khác, theo luật, không phải là một phần của nước và không hoạt động vì lợi nhuận .
1. Viện trợ nước ngoài phi chính phủ là gì?
Viện trợ phi chính phủ nước ngoài là viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các tổ chức nước ngoài khác và cá nhân, bao gồm các công ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cộng đồng người Việt Nam. Cư dân nước ngoài tôn trọng và tuân thủ pháp luật Việt Nam, thiện chí, trực tiếp tài trợ không hoàn lại. viện trợ, phi lợi nhuận, nhằm hỗ trợ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và tôn giáo nhân văn của Việt Nam. Các phương thức hỗ trợ cho các NGO, cụ thể:
a) Viện trợ thông qua các chương trình, dự án
b) Viện trợ phi dự án (bao gồm cả viện trợ khẩn cấp)
2. Khái niệm NGO
Chúng ta phải quan niệm đây là những hoạt động phi lợi nhuận, tham gia vào các hoạt động phát triển xã hội. Liên Hợp Quốc là một cơ quan đa quốc gia đưa ra định nghĩa sau:
- "Tổ chức phi chính phủ" là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức, hiệp hội, ủy ban cộng đồng, ủy ban từ thiện, tổ chức phi lợi nhuận hoặc pháp nhân khác, theo luật, không nằm trong khu vực. hoạt động vì lợi nhuận. Tức là lợi nhuận nếu có cũng không được chia theo kiểu phân chia lợi nhuận. Tổ chức này không bao gồm các công đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã chia sẻ lợi nhuận, nhà thờ hoặc chùa chiền. Tất cả các NGO hình thành khu vực phi chính phủ, cùng tồn tại với khu vực nhà nước, khu vực tư nhân và khu vực tập thể. Hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực dịch vụ, văn hóa, khoa học công nghệ, nhân đạo... Gọi chung là hoạt động phục vụ lợi ích chung, phát triển lành mạnh, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Thuật ngữ “tổ chức phi chính phủ” xuất hiện ở Việt Nam, lần đầu tiên được sử dụng trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992. Sau đó là Luật Hợp tác xã năm 1996 và một số văn bản pháp luật gần đây:
- Tổ chức phi chính phủ là một tổ chức được thành lập tương đối độc lập với chính phủ. - Được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hoặc công nhận, chịu sự quản lý của nhà nước.
Nó được tạo ra bởi ý chí của con người.
- Hoạt động phi lợi nhuận trong khuôn khổ pháp luật.
3. Lịch sử NGO ở Việt Nam hiện nay
Là tổ chức tự nguyện của nhân dân, có tư cách pháp nhân: tập hợp những cá nhân có cùng đặc điểm, cùng nghề nghiệp, cùng giới tính, cùng sở thích, cùng nhu cầu, v.v. Hành động thường xuyên để đạt mục tiêu chung không vụ lợi. Hành động trong khuôn khổ pháp luật.
Theo khái niệm trên, “đoàn thể nhân dân” bao gồm hầu hết các nhóm tổ chức nhân dân như câu lạc bộ, hội, hiệp hội, đoàn thể. Tổ chức phi chính phủ quốc gia (NNGO) là một tổ chức có các thành viên đều có cùng quốc tịch. Tổ chức phi chính phủ quốc tế. Tổ chức quốc tế xuất hiện trên thế giới năm 1970, có phạm vi hoạt động rộng khắp thế giới. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế phải tuân thủ luật pháp của nước sở tại. Một nhóm các tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Liên bang được thành lập trên phạm vi quốc gia, quốc tế hoặc khu vực để hỗ trợ những người thuộc các nhóm có hoàn cảnh, nguyện vọng và sở thích giống nhau trong các hoạt động giao lưu văn hóa. , xã hội. Đặc biệt là trong quá trình hội nhập. Ngoài các tổ chức phi chính phủ kể trên, còn có các tổ chức phi chính phủ do các cá nhân thành lập và hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
Hiện nay, các tổ chức phi chính phủ đóng một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tích cực xã hội đại chúng. Tính tích cực xã hội là sự biểu hiện của hoạt động có ích cho xã hội, hoàn thiện chất lượng trên mọi lĩnh vực: chính trị xã hội, kinh tế và tinh thần. Tương ứng với mỗi lĩnh vực đó đều có vai trò to lớn trong việc phát triển tính tích cực của mỗi người dân. Có thể nói tổ chức phi chính phủ là môi trường xã hội giáo dục, rèn luyện ý thức dân chủ, năng lực và thực hành dân chủ cho công dân. Vai trò phi chính phủ quan trọng đến mức các tổ chức quốc tế lớn như Liên Hợp Quốc, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) và đặc biệt là các Tổ chức Ngân hàng (IMF, WB...) quan tâm đến hoạt động của các tổ chức phi chính phủ.
Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đã vào Việt Nam từ nhiều chục năm nay, gắn liền với những giai đoạn lịch sử cụ thể của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Trước tháng 5 năm 1975, trong giai đoạn này có khoảng 63 tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các tổ chức phi chính phủ này hoạt động ở miền Nam. Miền Bắc nhận viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa thông qua các hội hữu nghị. Năm 1965, viện trợ cho nhân dân Việt Nam bị chiến tranh tăng cường từ các nước phương Tây và một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài, đã gửi những chuyến hàng viện trợ lớn đến những vùng bị bom đạn tàn phá. Từ năm 1975 đến năm 1979, hầu hết các tổ chức phi chính phủ đóng cửa văn phòng và rút nhân viên nước ngoài do lệnh cấm vận. Năm 1979, một số tổ chức phi chính phủ nước ngoài có văn phòng tại Thái Lan và Lào tiếp nhận viện trợ, cứu trợ nhân đạo tại Việt Nam. Sau năm 1979, Bộ Tài chính thành lập Ban tiếp nhận viện trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận viện trợ của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
Từ năm 1980, Việt Nam bắt đầu mở rộng quan hệ quốc tế, thực hiện đường lối đổi mới, phá bỏ bao vây, cấm vận. Sự thay đổi này tạo ra nhiều cơ hội mới cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài giúp đỡ Việt Nam. Nhiều tổ chức phi chính phủ đã cử đại diện đến Việt Nam. Năm 1989, Ban điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM) thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam được thành lập để làm đầu mối cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
Năm 1990, chính phủ Việt Nam cho phép một số tổ chức: Action ATD, care International, MCC, OxfamBelgium, tổ chức Oxfam của Anh và tổ chức NARV mở văn phòng đại diện tại Hà Nội và tích cực vận động các tổ chức này cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài khác tại Việt Nam.
Năm 1996, Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ được thành lập theo Quyết định 340/TTg ngày 24 tháng 5 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam. Thuật ngữ NGO lan rộng từ thời điểm đó. Lặp lại một lần nữa. Phi chính phủ là cách diễn đạt để chỉ một tổ chức hoạt động tương đối độc lập với nhà nước, cùng tồn tại với nhà nước. Hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực dịch vụ, văn hóa, khoa học công nghệ, nhân đạo... Gọi chung là hoạt động phục vụ lợi ích chung, phát triển lành mạnh, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
4. Nguyên tắc nhận hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ
Theo Nghị định, việc quản lý và sử dụng viện trợ phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
1- Việc quản lý và sử dụng viện trợ phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Viện trợ chỉ được tiếp nhận, thực hiện và sử dụng khi đã được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Nguồn tiền viện trợ phải là nguồn tiền và tài sản hợp pháp.
2- Không nhận hàng hóa (kể cả vật tư, thiết bị) thuộc danh mục cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật.
3- Cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm toàn diện về việc quản lý và sử dụng hiệu quả các khoản viện trợ. 4- Các luồng tiền nhận và chi viện trợ phải được thực hiện thông qua tài khoản tiếp nhận viện trợ, bảo đảm công khai, minh bạch và báo cáo đầy đủ theo quy định.
5- Các khoản viện trợ thuộc nguồn thu của ngân sách Nhà nước phải được lập dự toán, hạch toán và nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ.
6- Đối với các khoản viện trợ không thuộc nguồn thu của ngân sách nhà nước, chủ tài khoản viện trợ được ủy quyền tự quản lý và chịu trách nhiệm về mục đích sử dụng viện trợ, kết quả sử dụng viện trợ và đảm bảo tuân thủ các quy định, quy định của pháp luật Việt Nam và các cam kết với nhà tài trợ. . Định kỳ các đơn vị nhận viện trợ báo cáo cơ quan chủ quản để tổng hợp và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp chung.
7- Sau thời hạn 06 tháng kể từ ngày phê duyệt khoản viện trợ, nếu khoản viện trợ chưa được triển khai mà không có lý do chính đáng thì cơ quan phê duyệt có quyền thu hồi quyết định phê duyệt tiếp nhận khoản viện trợ. Cơ quan chủ trì có trách nhiệm thông báo cho bên cung cấp khoản viện trợ về việc thu hồi quyết định phê duyệt khoản viện trợ.
5. Các hành vi bị nghiêm cấm
Nghị định nghiêm cấm các hành vi: Sử dụng nguồn viện trợ để rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế, phá hoại an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; làm băng hoại đạo đức xã hội, thuần phong, mỹ tục tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc. Sử dụng viện trợ để trục lợi, tư lợi, không vì mục đích nhân đạo, phát triển kinh tế - xã hội, không vì lợi ích cộng đồng. Hành vi tham nhũng, dẫn đến thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng viện trợ. Nghị định nêu rõ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các khoản viện trợ có nội dung liên quan đến an ninh, quốc phòng, tôn giáo và các khoản viện trợ nhằm mục đích hỗ trợ trực tiếp cho việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. ; hàng hóa nhập khẩu thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài ra, nghị định cũng quy định về hướng dẫn viện trợ: Tùy theo mức độ quan trọng, tính chất, nội dung viện trợ, cơ quan chủ trì hướng dẫn tổ chức hướng dẫn theo hình thức tổng hợp ý kiến hoặc theo nhóm. cơ quan hội nghị thẩm định. Ý kiến cuối cùng của cơ quan chủ trì thẩm định là cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét và quyết định phê duyệt việc tiếp nhận viện trợ. Trường hợp khoản viện trợ không đủ điều kiện, cơ quan chủ quản thông báo cho bên cung cấp khoản viện trợ về quyết định không tiếp nhận khoản viện trợ.
Đối với hỗ trợ khắc phục hậu quả, khi phê duyệt văn kiện dự án, phi dự án, Thủ trưởng cơ quan chủ quản không phải lấy ý kiến thẩm định của các cơ quan có liên quan. Thời gian hướng dẫn không quá 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Nội dung bài viết:
Bình luận