Người lớn là gì? Người lớn theo quy định của Bộ luật dân sự 2015? Phân biệt giữa người lớn và người chưa thành niên?
Một trong những rào cản đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật về tuổi thành niên là quy định về tuổi thành niên trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa thống nhất. Thế nào được coi là người lớn? Quy định của Bộ luật Dân sự 2015 về người thành niên như thế nào?

1. Thế nào là người lớn?
Người thành niên là người từ mười tám tuổi trở lên, thành niên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Mục 20 của Học kỳ 1 quy định: “Người lớn có nghĩa là người đủ mười tám tuổi trở lên”. Đây là những người đã đến tuổi trưởng thành: đủ 18 tuổi trở lên. Khi cá nhân đủ mười tám tuổi (tính theo ngày, tháng) thì còn phải có sức khỏe tốt, trí tuệ phát triển bình thường, không mắc bệnh tâm thần, mất trí nhớ và không bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tức là cá nhân này có khả năng nhận thức được việc mình đang làm, có khả năng điều khiển, chỉ huy hành vi của mình.
Như vậy, người từ đủ mười tám tuổi (theo ngày đầy đủ) được coi là có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể và được tham gia quan hệ dân sự một cách độc lập.
2. Quy định về người thành niên theo Bộ luật dân sự năm 2015:
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật dân sự 2015 thì người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này, cụ thể:
– Người mất năng lực hành vi dân sự
Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Khi không còn căn cứ để tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của tổ chức, cơ quan hữu quan, quyết định của Tòa án hủy quyết định tuyên bố đó người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
- Bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Trường hợp người nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác gây huỷ hoại tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án có thể ra quyết định. năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
Việc xác lập, thực hiện các nghiệp vụ dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của người đó. đời sống hàng ngày hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan. .
Khi không còn căn cứ để tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ hiệu lực hành vi dân sự. quyết định tuyên bố thời hạn. về năng lực hành vi dân sự.
3. Phân biệt người lớn và người chưa thành niên:
Về khái niệm người chưa thành niên, chúng ta có thể nhận ra ngay đó là người chưa đến tuổi trưởng thành. Tuổi trưởng thành của một người là độ tuổi cụ thể được pháp luật xác định hoặc công nhận là người trưởng thành và có tất cả các quyền và nghĩa vụ của công dân. Ngược lại, người chưa thành niên là người chưa thành niên - chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật. Như vậy, các quyền và nghĩa vụ gắn liền với quyền công dân là cơ sở pháp lý để phân biệt người thành niên với người chưa thành niên. Đồng thời, việc xác định một người là thành niên hay chưa thành niên là cơ sở xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ công dân đối với người đó. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì người thành niên là người trên 18 tuổi và người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Trong một số sách, báo và trong các cuộc nói chuyện hàng ngày, người ta cũng có thể bắt gặp khái niệm vị thành niên, một khái niệm hoàn toàn đồng nghĩa với vị thành niên, khi được hiểu là thiếu, thiếu, chưa hoặc chưa đủ. . Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm và mục đích điều chỉnh các quan hệ pháp luật cụ thể mà mỗi ngành luật, luật có quy định về độ tuổi khác nhau. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi, hành vi dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập và thực hiện theo quy định tại Điều 21 Bộ luật dân sự 2015. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện hành vi dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của họ, trừ hành vi dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi của họ .
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự về bất động sản, động sản phải đăng ký và các giao dịch dân sự khác do pháp luật quy định. được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Ở các lứa tuổi khác nhau (giữa người lớn và thanh niên) có nhận thức khác nhau, từ đó có khả năng thực hiện hành vi ở các mức độ khác nhau. Do đó, một người có sức khoẻ tốt, trí tuệ phát triển bình thường, không mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình nhưng chưa đủ 18 tuổi thì được coi là người chưa thành niên.
4. Năng lực pháp luật dân sự và năng lực pháp luật hành vi:
*) Năng lực dân sự của thể nhân.
Năng lực dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực hành vi dân sự như nhau. Năng lực dân sự của cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra và chấm dứt khi cá nhân chết.
Nội dung năng lực dân sự:
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn liền với tài sản.
- Quyền sở hữu, thừa kế và các quyền sở hữu khác.
- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó. Năng lực dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
*) Năng lực hành vi dân sự của người:
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân thông qua hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự.
- Người lớn:
Người thành niên là người từ mười tám tuổi trở lên.
Người đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của bộ luật này.
- Người chưa thành niên:
Đầu tiên. Người chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi.
- Hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó soạn thảo và thực hiện.
- Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện hành vi dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ hành vi dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày theo quy định của pháp luật. với quy định của pháp luật.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự về bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật. được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
5. Ai có đủ tư cách để thực hiện quyền khiếu nại?
Theo quy định của Luật Khiếu nại, người khiếu nại phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Khi đó, người đại diện hợp pháp của anh phải khiếu nại (điều 12 luật khiếu nại). Theo quy định của Bộ luật Dân sự, người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự phải là người trên 18 tuổi, không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình hoặc bị hạn chế. năng lực hành vi do nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người không có đầy đủ năng lực hành vi có thể tự mình khiếu nại. Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi vi phạm hành chính do mình gây ra khi không đồng ý với quyết định xử lý vi phạm hành chính của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền. đúng, có thể tự mình kháng cáo quyết định đó.
Đối với trường hợp nguyên đơn không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự (là người chưa thành niên, người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc một bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình) thì người đại diện phải: đại diện khiếu nại.
Nếu nguyên đơn ốm đau, già yếu, suy nhược cơ thể hoặc vì lý do khách quan khác không thể tự mình làm đơn khiếu nại thì có thể cho phép cha, mẹ, vợ, chồng, anh ruột, chị ruột, em rể của mình. , con đã thành niên hoặc người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền khiếu nại. Kết luận: Người đủ tuổi là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Vì vậy, việc phân biệt giữa người thành niên và người chưa thành niên có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp chủ thể xác định đúng quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia giao dịch dân sự.
Nội dung bài viết:
Bình luận