Người không có năng lực trách nhiệm pháp lý

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vì hoặc khả năng điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội. Luật ACC xin gửi đến quý bạn đọc bài viết về Người không có năng lực trách nhiệm pháp lý.

Nang Luc Trach Nhiem Phap Ly La Gi Quy Dinh Ve Nang Luc Trach Nhiem Phap Ly 10531

1. Quy định chung về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Điều 21 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về việc không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau:

Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đây là một trong những trường hợp miễn trừ trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Theo đó, người ở trong tình trạng bị coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn cả hai điều kiện sau:

1) Phải mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần;

2) Không có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi (và như vậy cũng không có năng lực điều khiển hành vì đó) hoặc tuy có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi nhưng không có năng lực điều khiển hành vi đó.

Việc xác định một người có thỏa mãn hai điều kiện nêu trên hay không đòi hỏi phải có sự trợ giúp của giám định tâm thần tư pháp.

Cần phân biệt tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự với trường hợp tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế - trường hợp chủ thể tuy cũng mắc bệnh nhưng chỉ bị hạn chế khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc khả năng điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội. Hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong trường hợp này vẫn bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, đây là trưởng hợp trách nhiệm hình sự được giảm nhẹ, vì tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi.

2. Phân tích về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Người có sự phát triển bình thường về tâm-sinh lí sẽ có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đến tuổi nhất định. Năng lực này có thể sẽ không có hoặc bị mất đi do mẳc bệnh liên quan đến hoạt động tâm thần. Người không có năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội do mắc bệnh được luật hình sự Việt Nam gọi là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS). Như vậy, trong luật hình sự Việt Nam, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được dùng để chỉ tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi do mắc bệnh mà khi không ở trong tình trạng đó thì người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự. Việc kiểm tra tình trạng này trong thực tiễn áp dụng chỉ được đặt ra khi có sự nghi ngờ về hoạt động tâm thần của người có hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội.

Lưu ý: Tên gọi này là theo cách gọi của Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đúng ra phải là: Tình trạng không có năng lực lỗi hay tình trạng không có năng lực nhận thức hoặc không có năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội.

Ở đây cần phân biệt người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) với người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự có thể là người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (theo Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) hoặc là người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự (theo Điều 12 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).

Điều 21 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người do:

"... mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thực hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”.

Như vậy, có hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Dấu hiệu y học (mắc bệnh) và dấu hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi).

- Về dấu hiệu y học: Người trong tình hạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.

- Về dấu hiệu tâm lí: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người không có (hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Như vậy, họ cũng không thể có được năng lực kiềm chế thực hiện hành vi đó. Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lí không thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.

Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi đồng thời cả hai dấu hiệu: y học và tâm lí đều thoả mãn. Hai dấu hiệu này tuy có quan hệ với nhau (trong đó dấu hiệu y học có vai trò là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lí có vai trò là kết quả) nhưng không có nghĩa đã mắc bệnh tâm thần là đều dẫn đến việc mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển. Năng lực này có mất hay không không những phụ thuộc vào loại bệnh mà còn phụ thuộc vào mức độ bệnh và vào tính chất của hành vi đã thực hiện. Có loại bệnh tâm thần luôn luôn làm mất năng lực trách nhiệm hình sự, có loại bệnh chỉ làm mất năng lực này khi bệnh ở mức độ nhất định và có loại bệnh hoàn toàn không làm mất năng lực này.

Việc xác định hai dấu hiệu này đều thuộc nội dung của giám định tâm thần tư pháp. Kết luận giám định tâm thần tư pháp không chỉ xác định người thực hiện hành vi có tính chất gây thiệt hại cho xã hội có mắc bệnh tâm thần và có trong trạng thái bệnh khi thực hiện hành vi đó hay không mà còn xác định ảnh hưởng của bệnh đã mắc (nếu có) đối với năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của người bệnh.

Bên cạnh tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, luật hình sự Việt Nam còn thừa nhận trường hợp tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế. Đây là trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của chủ thể bị hạn chế. Người này không thuộc trường hợp không có điều kiện để có lỗi, nhưng tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Lỗi của họ cũng là lỗi hạn chế và do vậy, luật hình sự Việt Nam coi tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết này được quy định cùng với những tình tiết khác tại Điều 51 bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

3. Các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự

Theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, các trường hơp được loại trừ trách nhiệm hình sự bao gồm:

- Sự kiện bất ngờ

- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

- Phòng vệ chính đáng;

- Tình thế cấp thiết;

- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội;

- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuât, công nghệ;

- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.

Trên đây là toàn bộ nội dung bài viết về Người không có năng lực trách nhiệm pháp lý do Luật ACC cung cấp. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp ích cho quý bạn đọc. Trong quá trình tìm hiểu, nếu quý bạn đọc còn có thắc mắc, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website hoặc Hotline để được hỗ trợ giải đáp.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo