Chế độ mẫu hệ (មត្តេយ្យកា) là hệ thống tôn kính người mẹ hoặc chính phủ nữ là người vĩ đại nhất trong xã hội, công nhận người mẹ hoặc người phụ nữ là người đứng đầu quốc gia.

Một số người nghĩ rằng "mẫu hệ" chỉ đơn giản là phụ nữ có quyền tự do lựa chọn bạn tình vì họ thấy rằng ở các dân tộc mẫu hệ (như Tây Tạng), phụ nữ được quyền lấy nhiều chồng. Ở một số bang nhỏ của Ấn Độ, vấn đề này không phải là mới. Chuyện “Maha Phearatah” (មហាភារតៈ - Mahābhārata), nàng Draupati có 5 người chồng là anh em ruột với nhau, gọi là “Pāñḍva” (បាញ្ឌវៈ). Người Ấn Độ coi những điều này là đương nhiên. Đối với xã hội Khmer thì khác. Mặc dù theo chế độ mẫu hệ và tôn trọng phụ nữ, nhưng phụ nữ Khmer không có truyền thống lấy nhiều chồng và có nhiều quyền lực cho đến thế kỷ 14. Zhou Daguan (Tcheou Ta Kouan - Chu Đạt Quân) đi truyền giáo sang Campuchia năm 1296 đã viết rằng: "Trong các gia đình Khmer, mỗi khi sinh một bé gái, cha mẹ thường không quên cầu nguyện. tương lai tôi có nhiều chồng, hàng trăm, hàng nghìn chồng.”
Chế độ mẫu hệ của người Khmer không chỉ là quyền của phụ nữ Khmer mà còn là chế độ xã hội của người Khmer thời nguyên thủy. Người Khmer thừa hưởng truyền thống này từ tổ tiên Munda của họ. Chế độ mẫu hệ của người Khmer thiên về kính và biết “Mẹ Ba”, nghĩa là Mẹ - Cha. Chế độ mẫu hệ của người Khmer không chỉ là một chế độ quản lý nhà nước mà còn là một chủ nghĩa dân tộc của dân tộc Khmer. Trong xã hội Khmer, người mẹ có vai trò và vị trí cao nhất trong mọi trường hợp. Đối với người Khmer, mẹ là thủ lĩnh, là vua và cũng là thủ lĩnh tinh thần (thần linh).
Mẹ là người lãnh đạo
Người Khmer gọi mẹ là “me” (từ này sau trở thành mae) và trong xã hội Khmer, người mẹ đóng vai trò là người lãnh đạo. Để người Khmer không quên vai trò chủ đạo của người mẹ, người Khmer gọi mẹ là “em”. “Tôi” trong tiếng Khmer có 2 nghĩa: (1) mẹ, (2) người lãnh đạo, quản lý.
“Me” là mẹ trong các từ “Mekong” có nghĩa là sông mẹ (Kongkea là nước, Kongk là sông), “Me Morn” có nghĩa là gà mẹ,…
“Me” có nghĩa là trưởng, quản lý trong các từ “Me Top” có nghĩa là tướng soái (đứng đầu binh lính), “Me Srok” có nghĩa là trưởng srok - quận trưởng, “Me khleang” có nghĩa là quản lý, trong kho manager - quản lý kho. Người Khmer gọi cấp trên là “tôi” chứ không phải anh, chị hay “đồng chí” như người Yuon.
Người Khmer tự gọi mình là Khmers (Kh Me R), có nghĩa là người dưới “tôi” (mẹ) (đã giới thiệu trước đây). Phương pháp tâm lý hạ bệ người Khmer dưới sự lãnh đạo (hoặc có thể là tẩy não) không phải là một vấn đề xa lạ. Ngay từ thời Munda, người Khmer đã dùng từ "Anh" (អាញ់ - Aññ) nghĩa là "Đạo" để chỉ mình. Từ này vẫn được sử dụng cho đến thời kỳ Angkor. Khi người Khmer lấy Phật giáo Nguyên thủy làm quốc giáo, họ bắt người Khmer dùng từ “Khnhum” (ខ្ញុំ) nghĩa là “tôi”, “tôi tớ” để gọi mình. (Yuon cũng có trường hợp này, dùng từ “tôi” hay “tôi tớ” là từ chỉ người hầu, người hầu tự gọi mình). Các nhà sư Khmer không dùng từ “Khnhum” để gọi mình mà dùng từ “Atma” (អត្មា) là một từ gốc tiếng Phạn có nghĩa là “tự”.
Mẹ là nữ vương
Chế độ chính trị đầu tiên của người Khmer là chế độ quân chủ do hoàng hậu đứng đầu tương tự như chế độ mẫu hệ của người Munda. Lịch sử về các hoàng hậu của người Khmer cho đến nay vẫn chưa được biết rõ, nhưng người ta biết rõ về vị hoàng hậu cuối cùng của người Khmer, trị vì vào khoảng năm 50 sau Công nguyên và được người Khmer gọi là “Yeay Liu” (đã đề cập ở chương VI).
Sau khi Brahma Kaundin trở thành vua Khmer và Yeay Liu trở thành hoàng hậu, phụ nữ Khmer vẫn giữ địa vị cao trong xã hội và chế độ mẫu hệ vẫn còn ảnh hưởng.
Không chỉ vậy, Vua Kaundin là người sáng lập ra nhà nước mới và Nữ hoàng Yeay Liu là người sáng lập triều đại mới này được gọi là “Sauma Vaingsa” (សោមាវាំង្សា) theo tên của bà Sauma.
Mẹ là một vị thần
Ban đầu, người Khmer cũng như người Munda không theo một tôn giáo nào và không tin vào một vị thần nào. Cũng giống như tổ tiên Munda của mình, người Khơ-me thờ “Ta - Ta”, thờ “Đất - Nước” và “Neak Ta”. Theo tín ngưỡng dân tộc, người Khmer nâng “Me - Ma” lên hàng thần thánh.
Phạm trù “Tôi” được người Khmer cụ thể hóa bằng hình ảnh “Néang Konghing” (នាងគង្ហីង) và hình ảnh “Bà” được cụ thể hóa bằng hình ảnh “Cá Sấu” (ក្រពើ – Kraper). Người Khmers tôn kính hình ảnh này như thần thánh. Neang Konghing là hình ảnh người phụ nữ với mái tóc dài chấm gót. Kraper là hình ảnh của một con cá sấu hay lá cờ có hình con cá sấu được gọi là “Cờ cá sấu” (ទង់ទង់ - Tǒng Kraper).
Kể từ sự xâm nhập của văn hóa Arya với sự trị vì của Brahma Kaundin, chế độ mẫu hệ trong đó người phụ nữ đảm nhận vai trò người mẹ, người lãnh đạo quốc gia và vị thần đã dần suy yếu và biến mất hoàn toàn vào năm 1336, khi Phật giáo trở thành quốc giáo của người Khmer.
Người Aryan không có quan hệ huyết thống với người Munda, nghĩa là họ không có mối liên hệ nào với người Khmer. Người Arya có nguồn gốc từ phía tây Mông Cổ. Họ đặt tên cho mình là Arya, có nghĩa là cao quý, siêu việt.
Đạo Bà la môn (Brahmin) thịnh hành trong xã hội Khmer từ năm 50 đến năm 1336, Tây lịch. Tôn giáo này hoàn toàn không phân biệt đối xử với phụ nữ. Ngược lại, tôn giáo này rất cần phụ nữ. Mỗi vị thánh của tôn giáo này, dù là thần Shiva, thần Brahma hay thần Vishnu, đều có một hoặc nhiều vợ. Hình ảnh những người phụ nữ như những vị thần không nhiều, chẳng hạn như tiên nữ, Apsara (vũ công của các vị thần). Hình ảnh hơn 2000 Apsara được khắc trên ngôi đền Vishnu Loka (hay còn gọi là Angkor Wat) cũng là sự đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội Khmer.
Trong xã hội Bà la môn, phụ nữ Khmer có rất nhiều quyền tự do. Zhou Daguan đã viết như sau: “Khi đến tuổi trưởng thành, sau khi thực hiện 'Tian Cup' (ឆាន់ទាន), phụ nữ có quyền tự do đi lại mà không bị bất kỳ ai gò bó, kiểm soát. . Một người đàn ông có quyền quan hệ tình dục với người phụ nữ anh ta yêu trước khi kết hôn với cô ấy. Theo truyền thống, người Khmer không coi điều này là đáng xấu hổ hay kỳ lạ.
Việc Kaundin lên ngôi và lấy Yeay Liu làm hoàng hậu thể hiện sự khôn ngoan của ông bởi hình ảnh Yeay Liu trên ngai vàng là biểu tượng để người đời thấy được sự tồn tại của chế độ mẫu hệ và dễ dàng chấp nhận thân phận của vị vua đầu tiên này. Mười ba thế kỷ sau khi Kaundin lên ngôi, các vị vua vẫn giữ những đặc điểm nữ tính như sơn đỏ tay chân, cài hoa trên búi tóc, đeo hoa tai, đeo vòng ngọc và sử dụng những từ dành cho phụ nữ như Jas (ចាស៎ - vâng, trong khi nam giới sử dụng chữ dơi - បាទ), … Nhà vua có 400 nữ cận vệ và 4000 cung nữ. Tất cả những điều này chỉ cho nhân dân thấy rằng giai cấp thống trị vẫn tôn trọng chế độ mẫu hệ.
Phật giáo du nhập vào xã hội Khmer từ những năm đầu Tây lịch, nhưng chính thức trở thành quốc giáo vào năm 1336. Bà la môn giáo đã bị hủy hoại và bị tiêu diệt hoàn toàn. Các Phạm thiên (Brahmins - giai cấp xuất gia của Bà La Môn) bị giết hoặc phải chạy trốn khỏi vương quốc. Kể từ thời điểm đó, vị trí của phụ nữ không hoàn toàn thay đổi.
Đối với đạo Phật, phụ nữ là nguồn gốc của mọi dục vọng (តណ្ហា - Taṇhā) và những dục vọng này là nguồn gốc của mọi khổ đau (ទុក្ខ - Dukkha). Như vậy, để thoát khỏi mọi đau khổ, người ta phải loại bỏ dục vọng và nguồn gốc của nó, đó là phụ nữ. Trong Phật giáo, các nhà sư không được phép nhìn phụ nữ. Chúng ta cũng thấy trong sách vở Phật giáo, người phụ nữ hoàn toàn bị coi thường và không được đề cao.
Hermann Oldenberg trong cuốn Đức Phật, Đời sống và Tôn giáo viết rằng: “Trong kinh sách Phật giáo người ta nhắc đến nhiều việc làm gian trá dối trá của phụ nữ, và trong những cuốn sách đó người ta đề cập đến bản chất đen tối và bí ẩn của người phụ nữ như đường đi của cá trong nước. Phụ nữ là những con người độc ác, xảo quyệt và tuyệt vời. Đối với phụ nữ, sự thật giống như một lời nói dối, một lời nói dối bằng sự thật,..."
Với tư duy này đối với phụ nữ, dễ hiểu vì sao phụ nữ Khmer mất đi địa vị vốn có của mình. Cũng vì lý do này mà chế độ mẫu hệ cũng mai một trong xã hội Khmer cho đến ngày nay.
Nội dung bài viết:
Bình luận