1.Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của người chấp hành án phạt tù:
Theo quy định tại Khoản 1 Mục 3 Luật Thi hành án hình sự 2010, người bị kết án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án có hiệu lực pháp luật. Ngoài hình phạt chính, người bị kết án có thể bị kết án chấp hành một số hình phạt bổ sung được quy định trong bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật như: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm làm nghề hoặc công việc nhất định. quy định cụ thể về việc hạn chế quyền bầu cử và điều kiện của người chấp hành án phạt tù. Theo Điều 30 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, người đang chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo thì bị tước quyền bầu cử. Như vậy, ngoài hình phạt chính và hình phạt bổ sung được quy định trong bản án có hiệu lực pháp luật, hầu hết các quyền, nghĩa vụ khác của người bị kết án không bị ảnh hưởng, trong đó có quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc quyền của công dân được ghi trong Hiến pháp 2013 (Chương II Hiến pháp 2013).
Trích khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự 2010:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
Người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật….”
Trích Điều 30 Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại biểu HĐND:
“Điều 30. Những trường hợp không được ghi tên, xóa tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử tri
Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực hành vi dân sự thì không được ghi tên vào danh sách cử tri.”
2.Thứ hai, về năng lực hành vi tố tụng dân sự của người đang chấp hành án phạt tù:
Theo Khoản 1 Điều 68 Luật Tố tụng dân sự 2015 thì trong vụ án dân sự, đương sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Các đương sự có năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 1 và 2 Điều 69 Luật Tố tụng dân sự 2015 thì năng lực pháp luật tố tụng dân sự là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định và năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. Luật tố tụng dân sự 2015 cũng không có quy định cụ thể về hạn chế năng lực hành vi tố tụng dân sự của người chấp hành án phạt tù.
Do đó, người chấp hành án phạt tù vẫn là một bên trong vụ án dân sự và có năng lực hành vi tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật.
Từ khoản 2 mục 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
“Điều 68. Đương sự trong vụ án dân sự
Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trích khoản 1 và 2 mục 69 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

người đang chấp hành hình phạt tù là gì
“Điều 69. Năng lực pháp luật trong tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là năng lực có các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự do pháp luật quy định. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự.
3. Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết trường hợp cá nhân đang chấp hành án phạt tù:
Theo quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự, không có quy định nào hạn chế thẩm quyền giải quyết tranh chấp do đương sự đang chấp hành hình phạt tù. Tòa án có thể thu thập chứng cứ và sau đó quyết định vắng mặt theo luật định.
Vì vậy trong trường hợp của bạn, bạn vẫn có thể khởi kiện người đang chấp hành án phạt tù. Bạn phải nộp đơn khởi kiện lên tòa án có thẩm quyền. Tòa án sẽ thu thập chứng cứ và quyết định theo quy định của pháp luật tố tụng.
Nội dung bài viết:
Bình luận