1.Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xét xử vắng mặt đương sự tại phiên tòa sơ thẩm

1.1.Các trường hợp xét xử vắng mặt đương sự
Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án trong các trường hợp đương sự vắng mặt như sau:
Thứ nhất, tại lần triệu tập hợp lệ thứ nhất đến phiên tòa sơ thẩm: Đương sự vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì vẫn xét xử.
Việc xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa còn được áp dụng tương tự hướng dẫn tại các điều 27, 28 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS (Nghị quyết số 05/2012), dù có hay không lý do chính đáng. Trường hợp đương sự vắng mặt mà không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt thì Tòa án hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, Tòa án vẫn tiến hành xét xử nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: (i) Có một hoặc một số đương sự; người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một hoặc một số đương sự có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và các đương sự còn lại, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự còn lại vẫn có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; (ii) Tất cả các đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ để giải quyết theo quy định pháp luật. Thứ hai, theo giấy triệu tập hợp lệ đến phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai: Đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa. Trường hợp không phải do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì cần thực hiện các biện pháp sau:
Trường hợp nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với đơn khởi kiện, trừ trường hợp người đó có đơn khởi kiện vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.
- Bị đơn không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người đó.
- Trường hợp bị đơn yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu phản tố, trừ trường hợp bị đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố lại theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì người đó bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập và Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu. , trừ trường hợp người đó yêu cầu xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có Yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại Yêu cầu độc lập đó theo quy định của pháp luật.
- Trường hợp luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
1.2 Hậu quả xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt
Căn cứ vào việc xác định yêu cầu, địa vị pháp lý của đương sự và trong từng trường hợp vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, pháp luật tố tụng dân sự quy định những hậu quả pháp lý khác nhau như:
Thứ nhất, những trường hợp Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa:
- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa có yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. - Trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa mà có người đại diện tham gia phiên tòa thì những người này có thể đại diện cho đương sự tham gia tố tụng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với bên được đại diện.
- Các trường hợp quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 227 BLDS 2015.
- Trong trường hợp đương sự có mặt tại phiên tòa rồi vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể coi như họ đã tự mình từ bỏ quyền lợi của mình. Khi đó, Tòa án tiếp tục xét xử vụ án và coi như đương sự vắng mặt. Trường hợp vì bệnh tật hoặc vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa thì Tòa án ra quyết định tạm ngừng phiên tòa, trừ trường hợp tố tụng cần xét xử tại vắng mặt. Thật vậy, khi Tòa án tiếp tục xét xử, trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử (đặc biệt là Thẩm phán) luôn hỏi các đương sự có mặt có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Nếu các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì Tòa án công nhận sự thỏa thuận đó, ghi vào biên bản phiên tòa và quyết định công nhận sự thỏa thuận này có hiệu lực (Điều 213 BLTTDS 2015). . Đương sự vắng mặt luôn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, hậu quả pháp lý trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa xét xử thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.
Do tính chất quan trọng của việc tham gia phiên tòa của các chủ thể trong quan hệ tố tụng nên các trường hợp phải hoãn phiên tòa đã được quy định tại Điều 227 Bộ luật Dân sự năm 2015. Thứ ba, hậu quả pháp lý trong trường hợp các đương sự vắng mặt tại phiên tòa xét xử thì Tòa án phải đình chỉ giải quyết vụ án.
Đến lần triệu tập thứ hai, nếu người khởi kiện vắng mặt không có lý do chính đáng, không có người đại diện tham gia phiên tòa và không yêu cầu xét xử vắng mặt thì Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với người có đơn. .yêu cầu của ứng viên. Trong trường hợp này, có thể cho rằng họ đã từ bỏ vụ kiện, đối tượng của vụ án không còn nên việc giải quyết vụ án phải dừng lại. Lúc này số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp đã được sung vào ngân sách nhà nước, nguyên đơn vẫn có quyền yêu cầu mở lại vụ án theo pháp luật. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu vụ án có yêu cầu phản tố của bị đơn và/hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án vẫn phải xem xét giải quyết các yêu cầu đó. Lúc này, có thể bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành nguyên đơn và nguyên đơn trở thành bị đơn.
1.3.Ra quyết định của Tòa án khi đương sự vắng mặt tại phiên tòa xét xử
Tương ứng với từng trường hợp đương sự vắng mặt, Tòa án ra các quyết định phù hợp, bao gồm:
Trường hợp đương sự vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt hoặc có lý do chính đáng thì chủ tọa phiên tòa thông báo lý do vắng mặt hoặc đơn xin vắng mặt của đương sự trong phiên tòa xét xử theo quy định. quy định và tiến hành các thủ tục sau: hoàn toàn theo thủ tục đã lập. Toà án luôn tiến hành xét xử và tuyên án sơ thẩm. Nếu tại phiên tòa, sự thỏa thuận của các bên về việc giải quyết vụ án được công nhận thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên theo quy định tại Điều 246 Bộ luật dân sự 2015.
Nếu hoãn phiên tòa thì Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử ký tên và thông báo công khai tại phiên tòa; Tòa án gửi ngay cho người vắng mặt và Viện kiểm sát cùng cấp quyết định hoãn phiên tòa.
Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án: Nguyên đơn vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa (bị coi là từ bỏ việc khởi kiện); bị đơn có yêu cầu phản tố vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa (bị coi là từ bỏ yêu cầu phản tố); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa (bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập).
2.Một số vấn đề cần trao đổi và kiến nghị
Nghị quyết số 05/2012 cho đến nay chưa có hướng dẫn thay thế khi áp dụng BLTTDS năm 2015. Trên thực tế, việc áp dụng tương tự hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2012 để giải quyết các trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm vẫn tồn tại một số vướng mắc cần có hướng dẫn thi hành. Cụ thể như sau:
2.1.Việc viện dẫn và chứng minh sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2012 có điểm hợp lý khi quy định: “… đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã chuẩn bị tham gia phiên tòa xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với họ trước thời điểm Tòa án mở phiên tòa hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Tòa án để tham gia phiên tòa (do thiên tai, địch họa, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…) nên họ không thể có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, thì Tòa án cũng hoãn phiên tòa”. Quy định này cần được kế thừa trong văn bản hướng dẫn thay thế Nghị quyết số 05/2012 về thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tuy nhiên, hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012 chỉ quy định “trường hợp Tòa án không nhận được ý kiến của đương sự thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn phải tiến hành tố tụng. sự vắng mặt của họ, nếu sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà đương sự có đơn khiếu nại và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên tòa là do trường hợp bất khả kháng thì phải xem xét đơn khiếu nại theo thủ tục tái thẩm”. Theo đó, Nghị quyết này vẫn để ngỏ trường hợp các bên bị hại viện dẫn sự kiện bất khả kháng tại phiên tòa nhưng không đủ chứng cứ chứng minh; Không thống nhất về vụ án đưa ra xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị do các đương sự vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng. Toà án không nhận được thông báo và tiếp tục xét xử tại toà sơ thẩm. Nhìn chung, các quy định về sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan còn chưa rõ ràng, gây nhầm lẫn và chưa bao quát được thực tế. Điều này dẫn đến kết quả khác nhau giữa các tòa án địa phương giải quyết cùng một sự kiện pháp lý. Đồng thời, tại thời điểm đương sự vắng mặt, Tòa án vẫn chưa có cơ sở để xác định việc vắng mặt là có hay không có lý do chính đáng nên khó có thể đưa ra quyết định chính xác. Để thống nhất trong thực tiễn xét xử, chúng tôi cho rằng, khoản 2 Điều 227 BLTTDS năm 2015 cần được hướng dẫn trong Nghị quyết thay thế Nghị quyết số 05/2012 theo hướng:
Thứ nhất, trong trường hợp đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo khoản 2 Điều 220 BLTTDS năm 2015, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập đến phiên toà theo các điều từ 174 đến 181 BLTTDS năm 2015 và họ đã chuẩn bị tham gia phiên xét xử, nhưng do sự kiện bất khả kháng xảy ra vào trước thời điểm Tòa án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Tòa án để tham gia phiên toà (do thiên tai, địch họa, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…) nên không thể có mặt tại phiên tòa thì Tòa án cũng hoãn phiên tòa.
Thứ hai, khi các chủ thể tố tụng có quyền viện dẫn sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan tại phiên tòa nhưng không đủ chứng cứ chứng minh thì Tòa án bác bỏ các căn cứ về sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó và giải quyết theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, trường hợp Tòa án không nhận được thông báo từ phía đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ, nếu vụ án được xem xét theo thủ tục phúc thẩm, đương sự kháng cáo và chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm do sự kiện bất khả kháng thì vụ án được xác định có “vi phạm nghiêm trọng khác” về thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đây là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 2 Điều 310 BLTTDS năm 2015 (hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm). Thứ tư, trong trường hợp Tòa án không nhận được thông báo của đương sự thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. đương sự có khiếu nại và chứng minh được việc vắng mặt tại phiên tòa vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì việc khiếu nại được xem xét theo thủ tục tái thẩm.
2.2.Hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ các bên liên quan
Tạm hoãn là việc chuyển phiên tòa từ thời gian đã định sang một ngày sau đó. Do tầm quan trọng của tư cách tố tụng của đương sự nên pháp luật tố tụng dân sự phải quy định cụ thể những trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, pháp luật nhìn chung chỉ quy định về việc triệu tập lần thứ nhất và lần thứ hai của đương sự. Theo chúng tôi, giấy triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và lần thứ hai không nên hiểu đơn giản theo số thứ tự mà phải luôn gắn với hai điều kiện: (i) giấy triệu tập hợp lệ; (ii) Đương sự vắng mặt. Do đó, đương sự vắng mặt lần thứ nhất là khi đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự vắng mặt; Vắng mặt lần thứ hai được xét xử khi được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà đương sự vắng mặt không có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hơn nữa, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không quy định rõ khi giấy triệu tập có hiệu lực đến lần thứ ba, lần thứ tư... mà đương sự viện dẫn trong trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải giải quyết như thế nào trước Tòa án? Nếu hoãn phiên tòa thì hoãn bao nhiêu lần khi đương sự viện dẫn sự kiện bất khả kháng, không cử người đại diện tham gia phiên tòa, không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và đương sự không rút đơn kiến nghị của họ? Hơn nữa, chúng ta có nên hiểu rằng về nguyên tắc Tòa án triệu tập hai lần hoặc tính hai lần cho các bên khác nhau không? Bởi nếu tính mỗi đương sự hai lần thì trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự, Tòa án có thể phải hoãn phiên tòa nhiều lần do đương sự vắng mặt có lý do chính đáng và không có người đại diện dẫn đến hậu quả là chậm trễ trong thời gian xét xử. Tuy nhiên, nếu quy định chỉ triệu tập hai lần thì không bình đẳng cho các đương sự về quyền tham gia tố tụng.
Vì vậy, để giải quyết các vướng mắc trên, khoản 2 Điều 227 BLTTDS năm 2015 nên quy định là: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai trở đi...” để xác định các trường hợp triệu tập hợp lệ lần thứ ba, thứ tư… đều áp dụng tương tự. Ngoài ra, nên hướng dẫn về số lần vắng mặt cho từng đương sự trong vụ án để có thể đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng.
2.3.Về hậu quả pháp lý khi đương sự vắng mặt, các đương sự khác thỏa thuận thành về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm
Thực tiễn áp dụng Điều 246 BLTTDS năm 2015 về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự còn vướng mắc trong trường hợp các đương sự có mặt thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Theo khoản 3 Điều 212 BLTTDS năm 2015 quy định về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt; trường hợp ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt đồng ý bằng văn bản. Như vậy, văn bản đồng ý là sự thừa nhận của bên vắng mặt về kết quả hòa giải và đương nhiên bên đó phải chịu hậu quả pháp lý của sự đồng ý này.
Tuy nhiên, Điều 246 Bộ luật dân sự 2015 không quy định việc áp dụng tương tự khoản 3 Điều 212 Bộ luật dân sự 2015. Trong trường hợp này, Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên hoặc chỉ công nhận sự thỏa thuận của các bên. ghi tự do ý chí, sự thỏa thuận của các bên? Nếu quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Tòa án phải tạm dừng phiên tòa để hỏi ý kiến của các đương sự vắng mặt. Khi đó, người vắng mặt được cho bao nhiêu thời gian để trả lời nhằm tránh việc các bên liên quan thay đổi ý kiến? Điều này dẫn đến mỗi tòa án địa phương có một cách giải quyết khác nhau về các hình thức công nhận/công nhận sự thỏa thuận; Hiệu lực pháp lý của sự ghi nhận này cũng không thống nhất khi coi việc ra bản án và cho thi hành hành vi tố tụng là bản án, quyết định. Hậu quả pháp lý của quyết định công nhận sự đồng ý của các bên và của bản án xét xử cũng rất khác nhau. Vì quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa không bị kháng cáo/kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; và bản án sơ thẩm bị kháng cáo/thử thách theo thủ tục phúc thẩm.
Với những lý do trên, chúng tôi cho rằng, trong trường hợp tại phiên toà sơ thẩm, nếu một trong các đương sự vắng mặt mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì việc lập phiên toà căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 259 Bộ luật dân sự năm 2015 để ra quyết định tạm ngừng phiên tòa. Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho đương sự vắng mặt về nội dung đã được các đương sự có mặt thống nhất tại phiên tòa. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản tố tụng, nếu các đương sự vắng mặt đồng ý hoặc không có ý kiến phản đối về sự đồng ý này thì Hội đồng xét xử ra quyết định ghi nhận sự đồng ý của các đương sự. Nếu đương sự vắng mặt không đồng ý thì HĐXX căn cứ vào tài liệu, chứng cứ để quyết định vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp các đương sự tiếp tục thỏa thuận được thì việc lập bản án sẽ ghi ý chí tự nguyện của những người có mặt trong bản án theo quy định của pháp luật.
Tạm hoãn là việc chuyển phiên tòa từ thời gian đã định sang một ngày sau đó. Do tầm quan trọng của tư cách tố tụng của đương sự nên pháp luật tố tụng dân sự phải quy định cụ thể những trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, pháp luật nhìn chung chỉ quy định về việc triệu tập lần thứ nhất và lần thứ hai của đương sự. Theo chúng tôi, giấy triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và lần thứ hai không nên hiểu đơn giản theo số thứ tự mà phải luôn gắn với hai điều kiện: (i) giấy triệu tập hợp lệ; (ii) Đương sự vắng mặt. Do đó, đương sự vắng mặt lần thứ nhất là khi đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự vắng mặt; Vắng mặt lần thứ hai được xét xử khi được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà đương sự vắng mặt không có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hơn nữa, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng không quy định rõ khi giấy triệu tập có hiệu lực đến lần thứ ba, lần thứ tư... mà đương sự viện dẫn trong trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì phải giải quyết như thế nào trước Tòa án? Nếu hoãn phiên tòa thì hoãn bao nhiêu lần khi đương sự viện dẫn sự kiện bất khả kháng, không cử người đại diện tham gia phiên tòa, không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và đương sự không rút đơn kiến nghị của họ? Hơn nữa, chúng ta có nên hiểu rằng về nguyên tắc Tòa án triệu tập hai lần hoặc tính hai lần cho các bên khác nhau không? Bởi nếu tính mỗi đương sự hai lần thì trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự, Tòa án có thể phải hoãn phiên tòa nhiều lần do đương sự vắng mặt có lý do chính đáng và không có người đại diện dẫn đến hậu quả là chậm trễ trong thời gian xét xử. Tuy nhiên, nếu quy định chỉ triệu tập hai lần thì không bình đẳng cho các đương sự về quyền tham gia tố tụng.
Vì vậy, để giải quyết các vướng mắc trên, khoản 2 Điều 227 BLTTDS năm 2015 nên quy định là: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai trở đi...” để xác định các trường hợp triệu tập hợp lệ lần thứ ba, thứ tư… đều áp dụng tương tự. Ngoài ra, nên hướng dẫn về số lần vắng mặt cho từng đương sự trong vụ án để có thể đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng.
2.3.Về hậu quả pháp lý khi đương sự vắng mặt, các đương sự khác thỏa thuận thành về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm
Thực tiễn áp dụng Điều 246 BLTTDS năm 2015 về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự còn vướng mắc trong trường hợp các đương sự có mặt thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Theo khoản 3 Điều 212 BLTTDS năm 2015 quy định về sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt; trường hợp ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt đồng ý bằng văn bản. Như vậy, văn bản đồng ý là sự thừa nhận của bên vắng mặt về kết quả hòa giải và đương nhiên bên đó phải chịu hậu quả pháp lý của sự đồng ý này.
Tuy nhiên, Điều 246 Bộ luật dân sự 2015 không quy định việc áp dụng tương tự khoản 3 Điều 212 Bộ luật dân sự 2015. Trong trường hợp này, Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên hoặc chỉ công nhận sự thỏa thuận của các bên. ghi tự do ý chí, sự thỏa thuận của các bên? Nếu quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì Tòa án phải tạm dừng phiên tòa để hỏi ý kiến của các đương sự vắng mặt. Khi đó, người vắng mặt được cho bao nhiêu thời gian để trả lời nhằm tránh việc các bên liên quan thay đổi ý kiến? Điều này dẫn đến mỗi tòa án địa phương có một cách giải quyết khác nhau về các hình thức công nhận/công nhận sự thỏa thuận; Hiệu lực pháp lý của sự ghi nhận này cũng không thống nhất khi coi việc ra bản án và cho thi hành hành vi tố tụng là bản án, quyết định. Hậu quả pháp lý của quyết định công nhận sự đồng ý của các bên và của bản án xét xử cũng rất khác nhau. Vì quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa không bị kháng cáo/kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; và bản án sơ thẩm bị kháng cáo/thử thách theo thủ tục phúc thẩm.
Với những lý do trên, chúng tôi cho rằng, trong trường hợp tại phiên toà sơ thẩm, nếu một trong các đương sự vắng mặt mà các đương sự có mặt thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì việc lập phiên toà căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 259 Bộ luật dân sự năm 2015 để ra quyết định tạm ngừng phiên tòa. Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho đương sự vắng mặt về nội dung đã được các đương sự có mặt thống nhất tại phiên tòa. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản tố tụng, nếu các đương sự vắng mặt đồng ý hoặc không có ý kiến phản đối về sự đồng ý này thì Hội đồng xét xử ra quyết định ghi nhận sự đồng ý của các đương sự. Nếu đương sự vắng mặt không đồng ý thì HĐXX căn cứ vào tài liệu, chứng cứ để quyết định vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp các đương sự tiếp tục thỏa thuận được thì việc lập bản án sẽ ghi ý chí tự nguyện của những người có mặt trong bản án theo quy định của pháp luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận