1. Luật sư là ai?
Người bào chữa là người được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cử để bào chữa cho bị can, người có thẩm quyền và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đăng ký việc bào chữa.
Bào chữa là việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Bào chữa là quyền hiến định của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Việc bị can, bị cáo đưa ra chứng cứ, lập luận, được xét hỏi, tranh luận trong giai đoạn điều tra, xét xử cũng là quyền của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ luật sư bào chữa cho mình. Cơ quan điều tra, kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa.
2. Ai có thể trở thành luật sư?
Người bào chữa có thể là:
- Luật sư:
Theo Điều 2 Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung 2012: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng).
Chức năng xã hội của Luật sư bao gồm: Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- Người đại diện của người bị buộc tội:
Người đại diện là người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Người đại diện bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền
- Bào chữa viên nhân dân:
Căn cứ Khoản 3 Điều 72 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định như sau: Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
- Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý:
Trợ giúp viên pháp lý hay còn gọi là Trợ giúp viên là một chức danh tại Việt Nam dùng để chỉ về những người thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh thuộc đối tượng tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể theo Luật Trợ giúp pháp lý của Việt Nam, họ là viên chức nhà nước và làm việc tại Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước.
3. Nhóm Quyền Thu thập Thông tin; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Điểm a khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự quy định người bào chữa có quyền “gặp và hỏi bị can”. Để tạo điều kiện cho phép luật sư bào chữa thực hiện đúng chức năng bào chữa của mình, pháp luật cho phép luật sư bào chữa có quyền gặp bị can. Để bảo đảm cho luật sư bào chữa thực hiện quyền gặp và hỏi bị cáo, Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự quy định để được gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cơ quan công an tạm giữ thì luật sư bào chữa phải xuất trình giấy triệu tập người bào chữa, thẻ luật sư hoặc thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân. Điều 256 của CPP quy định rằng trong quá trình xét xử, bị cáo bị tạm giam trước khi xét xử chỉ được liên hệ với luật sư của mình và việc tiếp xúc với những người khác phải được chủ tọa phiên tòa cho phép. Có thể thấy, quy định về trình tự, thủ tục người bào chữa gặp bị can là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc nội luật hóa trình tự, thủ tục này chứng tỏ nhà lập pháp đã quan tâm hơn đến vấn đề bảo đảm thực hiện các quyền của luật sư bào chữa trên thực tế, trong đó có quyền “gặp và hỏi người bị buộc tội”. Trình tự, thủ tục để người bào chữa gặp, hỏi đối với bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng được thống nhất và đơn giản - chỉ cần xuất trình giấy báo bào chữa, thẻ luật sư hoặc thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân Thẻ.
Điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTDS quy định luật sư bào chữa có quyền “thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và yêu cầu”. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa và đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu được quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. BLTTDS năm 2003 kế thừa và có bước phát triển mới, bổ sung cho quyền bào chữa. để “thu thập bằng chứng” và “đưa ra bằng chứng”. Bộ luật TTHS cũng bỏ quy định hạn chế luật sư bào chữa chỉ được thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu họ không thuộc bí mật nhà nước, bí mật lao động. Thay vào đó, để thu thập chứng cứ, luật sư bào chữa có quyền gặp người bào chữa, người bị hại, người làm chứng và những người khác quen thuộc với vụ án để yêu cầu và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến bào chữa. Trong trường hợp không thể thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì luật sư bào chữa có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục để thu thập. Theo từng giai đoạn tố tụng, trong quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, luật sư bào chữa phải giao nộp ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bổ sung vào hồ sơ. Chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập và chứng cứ do người bào chữa thu thập có giá trị ngang nhau và phải được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện để xác định tính hợp pháp, xác thực và tính liên quan đến vụ án. Quy định này xác lập sự bình đẳng giữa các bên trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; là cơ sở quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
4. Thu thập, giao nộp chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa
Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, không có điều luật riêng về quyền thu thập, giao nộp chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa.
Bộ luật TTHS 2015 quy định cụ thể hơn về quyền thu thập, giao nộp chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng việc tạo điều kiện giúp luật sư bào chữa thu thập chứng cứ. Luật sư bào chữa thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Cụ thể: Khi thu thập chứng cứ, luật sư bào chữa có quyền gặp người bào chữa. người bào chữa, người bị hại, người làm chứng và những người khác biết vụ án để yêu cầu nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến bào chữa.
Theo từng giai đoạn tố tụng, trong quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, luật sư bào chữa phải giao ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bổ sung vào hồ sơ. . . Việc giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Nội dung cụ thể của Điều 33 như sau:
Khi tiến hành các hoạt động hợp pháp phải đăng ký theo mẫu thống nhất. 1. Biên bản ghi rõ địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc, nội dung hoạt động tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc người bị liên quan đến tố tụng, khiếu nại, yêu cầu, kiến nghị của họ.
- Biên bản phải có chữ ký của những người theo quy định của Bộ luật này. Những sửa chữa, thêm, bớt trong biên bản phải được họ ký xác nhận. Trong trường hợp những người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người soạn thảo ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản.
Trường hợp những người tham gia tố tụng không biết chữ thì báo cáo viên đọc biên bản cho họ nghe trước mặt những người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của những người tham gia tố tụng và chữ ký của người làm chứng.
Nếu người tham gia tố tụng có khuyết tật về tâm thần, thể chất hoặc vì lý do khác không thể ký vào biên bản thì người ghi biên bản đọc biên bản cho họ nghe trước sự chứng kiến của người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của những người làm chứng. Trong trường hợp người bào chữa không thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập.
5. Đọc, ghi chú, copy tài liệu vào thư mục
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tạo điều kiện để luật sư bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu (Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Cụ thể, sau khi kết thúc điều tra, nếu có yêu cầu đọc, ghi chép, sao chụp các tài liệu trong hồ sơ bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thống nhất thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép. và sao chép tài liệu vào trường hợp. Sau khi đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, luật sư bào chữa phải trả lại nguyên trạng hồ sơ cho tổ chức đã cung cấp tài liệu đó. Nếu làm mất, thất lạc, làm hư hỏng tài liệu, hồ sơ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Nội dung bài viết:
Bình luận