Một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, bình đẳng. Đồng thời, trong thời kỳ hôn nhân, nam/nữ không được kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác.
1. Ngoại tình là gì? Khi nào ngoại tình bị coi là vi phạm pháp luật?
Trong các văn bản quy phạm pháp luật không hề đề cập đến khái niệm ngoại tình. Đó chỉ là từ thường dùng trong cuộc sống hàng ngày khi ám chỉ mối quan hệ "ngoài luồng" của vợ chồng với người thứ ba khi đã đăng ký kết hôn.
Hay hiểu một cách đơn giản, ngoại tình là từ dùng để chỉ một người (có thể là vợ, chồng) đã có vợ hoặc chồng (đã đăng ký kết hôn hợp pháp với người khác, được pháp luật bảo vệ và công nhận là quan hệ vợ chồng) nhưng lại có tình cảm, nảy sinh tình cảm với người không phải là vợ/chồng của mình.
Hiện nay trong cuộc sống, tình trạng có vợ, có chồng, nhiều người nảy sinh tình cảm, có quan hệ tình cảm… với người khác phái rất phổ biến. Tuy nhiên, không phải trường hợp ngoại tình nào cũng bị coi là phạm pháp. Một trong những hành vi bị cấm liên quan đến ngoại tình được nêu tại điểm c khoản 2 mục 5 Luật hôn nhân và gia đình:
c) Người đã có vợ, có chồng mà kết hôn, chung sống như vợ chồng với người khác, độc thân, chưa có giá thú mà kết hôn, chung sống như vợ chồng với người đã có vợ, có chồng;
Theo đó, họ chỉ được coi là chung sống như vợ chồng nếu có các đặc điểm nêu tại khoản 3.1 Điều 3 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC:
- Đã kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng chung sống với người khác hoặc độc thân, đã kết hôn nhưng chung sống với người mà mình biết là đã kết hôn hoặc đã kết hôn.
- Việc sống thử diễn ra công khai hoặc không nhưng phải sống với nhau như một gia đình.
Trong đó, sống chung thường thể hiện ở các đặc điểm sau: Có con chung, được hàng xóm và xã hội coi là vợ chồng; có tài sản chung… và đã được gia đình, đoàn thể, cơ quan giáo dục chia tay nhưng vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ này.
Như vậy có thể thấy, không phải mọi trường hợp ngoại tình đều bị coi là vi phạm pháp luật và bị xử lý theo quy định mà chỉ những mối quan hệ có tính chất như trên mới bị xử lý.
Tuy nhiên, mặc dù có thể hành vi ngoại tình chưa đến mức bị coi là vi phạm pháp luật nhưng khi một trong hai bên ngoại tình thì hành vi đó đã vi phạm quyền, nghĩa vụ cũng như quan hệ hôn nhân được quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình:
Đầu tiên. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu nhau, chung thủy, tôn trọng nhau, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; chia sẻ công việc gia đình với nhau.
Do đó, nếu vợ hoặc chồng ngoại tình nhưng chưa đến mức phải xử lý theo quy định của pháp luật thì người còn lại vẫn hoàn toàn có thể dựa vào lỗi này của chồng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi ly hôn bằng cách chia tài sản chung vợ chồng hoặc giành quyền nuôi con.2. Ngoại tình thì đi tù đến mức nào?
Cũng tại Thông tư liên tịch số 01/2001 nêu trên, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã liệt kê các trường hợp xem xét trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015:
- Vi phạm chế độ một vợ, một chồng một vợ một chồng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như: Gia đình của một bên hoặc cả hai bên ly hôn, thậm chí vợ, con của một bên/của cả hai bên tự sát...
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn tiếp tục quan hệ này. Điều 182 BLHS 2015 quy định:
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng
1. Người nào kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đã có vợ hoặc có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc cả hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Toà án huỷ việc kết hôn hoặc buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng và vẫn duy trì quan hệ này. Theo các quy định này, người ngoại tình đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự khi có các dấu hiệu nêu trên và có thể bị phạt tù:
- Phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 01 năm, phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm: Một bên hoặc các bên ly hôn; đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm.
- Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: Làm vợ, chồng hoặc con của một trong các bên tự sát; duy trì quan hệ khi có quyết định của Toà án huỷ việc kết hôn/buộc chấm dứt việc chung sống trái pháp luật như vợ chồng3. Trường hợp nào ngoại tình không bị phạt hành chính?
Như đã phân tích ở trên, hành vi ngoại tình có thể không bị pháp luật xử lý hoặc vi phạm nghiêm trọng thì người phạm tội có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc chỉ có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.
Cụ thể, phạt tiền từ 3 - 5 triệu đồng đối với người có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng hoặc chưa có giá thú mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết là có vợ có chồng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, mặc dù quy định là vậy nhưng trên thực tế, việc xử phạt hành vi ngoại tình rất khó áp dụng bởi:
- Có rất ít trường hợp người đã kết hôn được phép kết hôn với người khác vì hiện nay pháp luật đã quy định rất chặt chẽ về điều kiện đăng ký kết hôn và thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện đồng bộ, khoa học.
- Quy định về việc chung sống như vợ chồng cũng cần được công khai thừa nhận, có con chung, có tài sản chung, được gia đình, cơ quan giáo dục… mà còn tiếp diễn. Trong cuộc sống hiện nay, khi suy nghĩ và nhận thức cao thì những hành vi chung sống như vợ chồng thường không xảy ra.
Thông thường, những cặp vợ chồng chỉ lén lút ngoại tình, không công khai, không được hàng xóm, xã hội công nhận là vợ chồng thì không có điều kiện chung sống như vợ chồng. Do đó, sẽ không phải chịu trách nhiệm về tội phạm này.
Nội dung bài viết:
Bình luận