Luật Đê điều số 79/2006/QH11 quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều, đầu tư xây dựng, tu bổ, nâng cấp và kiên cố hóa đê điều, quản lý, bảo vệ đê, hộ đê và sử dụng đê điều. Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và cả nước ngoài có hoạt động về đê điều, các hoạt động có liên quan đến đê điều trên lãnh thổ Việt Nam. Sau đây là thông tin về Nghị định hướng dẫn luật đê điều số 113/2007/NĐ-CP.

1. Thuộc tính pháp lý của Nghị định số 113/2007/NĐ-CP
- Số ký hiệu: 113/2007/NĐ-CP
- Ngày ban hành: 28/06/2007
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày có hiệu lực: 03/08/2007
- Nguồn thu thập: Công báo số 476 & 477/2007;
- Ngày đăng công báo: 19/07/2007
- Ngành: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
- Cơ quan ban hành/ Chức danh / Người ký: Chính phủ
- Thủ tướng: Nguyễn Tấn Dũng
- Phạm vi: Toàn quốc
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
2. Xử lý công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông
Cụ thể, tại Điều 6 Nghị định 113/2007/NĐ-CP quy định về việc xử lý công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông như sau:
- Trên cơ sở quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê do Chính phủ phê duyệt, quy hoạch phòng, chống lũ chi tiết của tuyến sông có đê trong phạm vi địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm:
- Chỉ đạo xây dựng quy hoạch và phê duyệt hoặc trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng ở bãi sông theo quy định;
- Tổ chức cắm mốc chỉ giới trên thực địa theo quy hoạch;
- Xác định số lượng công trình, nhà ở phải di dời;
- Xây dựng kế hoạch và biện pháp thực hiện việc di dời.
- Thời gian di dời đối với công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông thuộc diện phải di dời được quy định như sau:
- Công trình, nhà ở hiện có trong khu vực đang bị sạt lở phải di dời ngay để bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân;
- Công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều phải tổ chức di dời trong thời gian tối đa 2 năm, kể từ ngày Luật Đê điều có hiệu lực;
- Công trình, nhà ở không phù hợp với quy hoạch (quy hoạch sử dụng đất; quy hoạch phòng, chống lũ; quy hoạch xây dựng các công trình, nhà ở và các quy hoạch khác có liên quan) do cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì phải tổ chức di dời trong thời gian tối đa 5 năm, kể từ ngày Luật Đê điều có hiệu lực thi hành.
- Chính sách đối với công trình, nhà ở hiện có trong phạm vi bảo vệ đê điều và ở bãi sông thuộc diện phải di dời được quy định như sau:
- Công trình, nhà ở hợp pháp được bồi thường theo quy định của pháp luật;
- Công trình, nhà ở không hợp pháp có thể được xem xét hỗ trợ; mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định.
- Các dự án xây dựng đã được phê duyệt trước ngày Pháp lệnh Đê điều có hiệu lực (ngày 01 tháng 01 năm 2001), nhưng chưa thực hiện hoặc chưa hoàn thành, nếu phù hợp với các quy hoạch quy định trong Luật Đê điều và các quy định của pháp luật hiện hành thì được tiếp tục thực hiện. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xem xét để quyết định cụ thể cho từng dự án nêu trên.
3. Nội dung quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê
Theo đó, tại Điều 4 Nghị định 113/2007/NĐ-CP về nội dung quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê theo khoản 2, khoản 3 và khoản 5 Điều 9 của Luật Đê điều được quy định như sau
- Xác định lũ thiết kế của tuyến sông gồm lưu lượng lũ thiết kế và mực nước lũ thiết kế cho từng giai đoạn quy hoạch, xác định mực nước lũ báo động để tổ chức hộ đê.
- Xác định các giải pháp kỹ thuật của quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, phân tích, đánh giá vai trò của từng giải pháp:
- Xây dựng hồ chứa nước thượng lưu;
- Trồng rừng phòng hộ đầu nguồn và trồng cây chắn sóng bảo vệ đê;
- Xây dựng, tu bổ đê điều;
- Xác định các vùng phân lũ, làm chậm lũ, khả năng phân lũ vào các sông khác, xác định thứ tự vận hành của các công trình phân lũ, làm chậm lũ;
- Làm thông thoáng dòng chảy;
- Tổ chức quản lý và hộ đê.
- Các giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê phải được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên của từng giai đoạn.
4. Quyền lợi khi đầu tư vào đê điều để kết hợp làm đường giao thông
Theo đó, tại Điều 3 Nghị định 113/2007/NĐ-CP quy định tổ chức, cá nhân đầu tư vào đê điều để kết hợp làm đường giao thông được hưởng những quyền lợi về chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đê điều như sau:
- Sử dụng đê theo mục đích đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
- Được chính quyền địa phương tạo điều kiện về mặt bằng thi công;
- Cho các phương tiện giao thông hoạt động theo quy định về tải trọng của dự án đầu tư;
- Được phép thu phí giao thông theo quy định của pháp luật.
- Bên cạnh đó, Tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu hoặc ứng dụng khoa học công nghệ vào lĩnh vực đê điều mà được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép áp dụng thì được hỗ trợ về kinh phí và các quyền lợi khác theo quy định hiện hành. Đồng thời, Tổ chức, cá nhân đầu tư vào việc trồng cây chắn sóng bảo vệ đê điều được hưởng các quyền lợi sau:
- Được bố trí đất trong phạm vi bảo vệ đê điều để trồng cây;
- Hỗ trợ kinh phí trong nguồn vốn xây dựng, tu bổ đê điều hàng năm;
- Được phép khai thác và hưởng lợi trong phạm vi đầu tư theo quy định.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi về chủ đề: Nghị định hướng dẫn luật đê điều số 113/2007/NĐ-CP. Nếu quý khách hàng có bất kỳ câu hỏi liên quan đến chủ đề này có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi để nhận được câu trả lời nhanh chóng, chính xác nhất. Với đội ngũ luật sư và chuyên viên pháp lý nhiều kinh nghiệm, giỏi chuyên môn, chúng tôi tự tin cam kết cho Quý khách hàng dịch vụ pháp lý tốt nhất, nhanh nhất, giá cả hợp lý nhất
Nội dung bài viết:
Bình luận