Thanh toán quốc tế về cơ bản được hiểu là việc thực hiện các nghĩa vụ thanh toán và lợi ích tiền tệ phát sinh từ các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân ở nước này với tổ chức nước ngoài và các tổ chức, cá nhân ở nước khác.

Qua quá trình hoạt động kinh tế quốc tế dẫn đến nhu cầu thanh toán, chi trả giữa các chủ thể trong các quốc gia khác nhau, từ đó nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng hình thành và phát triển. Trong hoạt động thanh toán quốc tế có rất nhiều chủ thể. Một trong số đó phải là ngân hàng được chỉ định trong lĩnh vực kinh doanh thanh toán quốc tế. Chắc hẳn vẫn còn nhiều người chưa hiểu rõ về thuật ngữ này.
1. Tìm hiểu thêm về thanh toán quốc tế:
Thanh toán quốc tế về cơ bản được hiểu là việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán và lợi ích tiền tệ phát sinh từ các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa tổ chức, cá nhân của nước này với tổ chức, cá nhân của nước khác, hoặc việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán và lợi ích tiền tệ phát sinh từ hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa một Nhà nước với một tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan.
Như vậy có thể thấy rằng, thanh toán quốc tế ra đời sẽ phục vụ cho hai lĩnh vực là kinh tế và phi kinh tế, tuy nhiên hai lĩnh vực kinh tế và phi kinh tế thông thường sẽ có sự gắn kết, giao thoa với nhau. Hoạt động ngoại thương phát triển cũng đã thúc đẩy sự hình thành nghiệp vụ thanh toán quốc tế vì dường như thanh toán quốc tế có thể phục vụ cho nghiệp vụ này, tức là một thanh toán quốc tế khác được hình thành nhằm mục đích phục vụ hoạt động mua bán hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới.
Có thể nói, thương mại quốc tế trên thực tế là tất yếu và thương mại quốc tế đang phát triển rất mạnh mẽ, bởi vì các quốc gia ngày nay quả thực sẽ không tự mình sản xuất được tất cả những gì mình cần, do điều kiện tự nhiên, tài nguyên và do đó là năng lực sản xuất của các quốc gia khác nhau.
Vì vậy, các quốc gia trên thế giới cũng sẽ nhập khẩu những mặt hàng mà họ có lợi thế sản xuất thấp và xuất khẩu những mặt hàng mà họ có lợi thế, để họ có thể hưởng lợi thế so sánh giữa các quốc gia với nhau.
Hiện nay có hai loại hình thanh toán quốc tế bao gồm: thanh toán trong ngoại thương và thanh toán trong phi ngoại thương. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương về cơ bản được hiểu là việc các chủ thể thanh toán trên cơ sở hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại cung cấp cho nước ngoài theo giá thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên thực hiện việc mua bán và thanh toán tiền cho nhau là hợp đồng mua bán ngoại thương. Thanh toán phi thương mại về cơ bản được hiểu là thanh toán cho các hoạt động phi thương mại.
Trên thực tế, vai trò của thanh toán quốc tế cũng rất được quan tâm. Thanh toán quốc tế có những vai trò cơ bản sau:
– Thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế: Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, trong đó các quan hệ kinh tế ngày càng đóng vai trò chủ đạo và bản chất của hoạt động thanh toán quốc tế, tạo sự liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới bên ngoài.
Hoạt động thanh toán quốc tế luôn được coi là một khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân từ các quốc gia khác nhau, là công cụ quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế.
– Thanh toán quốc tế với chủ thể là thương nhân xuất nhập khẩu: Thanh toán quốc tế khởi nguồn và phục vụ nhu cầu thanh toán đối với hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu từ các quốc gia. Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và các yếu tố khác, hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi các quốc gia khác nhau cũng khác nhau.
Chính vì không thể sản xuất mọi thứ phục vụ cho nhu cầu của nước mình, chính vì vậy mà ngày nay nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia là điều tất yếu. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã giúp các quốc gia giải quyết vấn đề xuất nhập khẩu hàng hoá.
– Thanh toán quốc tế với ngân hàng thương mại: Trong thương mại quốc tế, các chủ thể xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng thanh toán trực tiếp cho nhau mà thường sẽ thanh toán thông qua các ngân hàng thương mại có mạng lưới chi nhánh và ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Hoạt động thanh toán quốc tế về cơ bản được hiểu là hoạt động sinh lời của ngân hàng. Ngày nay, nghiệp vụ thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng đã giúp các chủ thể đem lại nguồn thu đáng kể không chỉ về số lượng tuyệt đối mà cả về tỷ trọng.
Như vậy có thể thấy rằng, thanh toán quốc tế ra đời sẽ phục vụ cho hai lĩnh vực là kinh tế và phi kinh tế, tuy nhiên hai lĩnh vực kinh tế và phi kinh tế thông thường sẽ có sự gắn kết, giao thoa với nhau. Hoạt động ngoại thương phát triển cũng đã thúc đẩy sự hình thành nghiệp vụ thanh toán quốc tế vì dường như thanh toán quốc tế có thể phục vụ cho nghiệp vụ này, tức là một thanh toán quốc tế khác được hình thành nhằm mục đích phục vụ hoạt động mua bán hàng hóa giữa các quốc gia trên thế giới.
Có thể nói, thương mại quốc tế trên thực tế là tất yếu và thương mại quốc tế đang phát triển rất mạnh mẽ, bởi vì các quốc gia ngày nay quả thực sẽ không tự mình sản xuất được tất cả những gì mình cần, do điều kiện tự nhiên, tài nguyên và do đó là năng lực sản xuất của các quốc gia khác nhau.
Vì vậy, các quốc gia trên thế giới cũng sẽ nhập khẩu những mặt hàng mà họ có lợi thế sản xuất thấp và xuất khẩu những mặt hàng mà họ có lợi thế, để họ có thể hưởng lợi thế so sánh giữa các quốc gia với nhau.
Hiện nay có hai loại hình thanh toán quốc tế bao gồm: thanh toán trong ngoại thương và thanh toán trong phi ngoại thương. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương về cơ bản được hiểu là việc các chủ thể thanh toán trên cơ sở hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ thương mại cung cấp cho nước ngoài theo giá thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên thực hiện việc mua bán và thanh toán tiền cho nhau là hợp đồng mua bán ngoại thương. Thanh toán phi thương mại về cơ bản được hiểu là thanh toán cho các hoạt động phi thương mại.
Trên thực tế, vai trò của thanh toán quốc tế cũng rất được quan tâm. Thanh toán quốc tế có những vai trò cơ bản sau:
– Thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế: Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia, trong đó các quan hệ kinh tế ngày càng đóng vai trò chủ đạo và bản chất của hoạt động thanh toán quốc tế, tạo sự liên kết giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới bên ngoài.
Hoạt động thanh toán quốc tế luôn được coi là một khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân từ các quốc gia khác nhau, là công cụ quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế.
– Thanh toán quốc tế với chủ thể là thương nhân xuất nhập khẩu: Thanh toán quốc tế khởi nguồn và phục vụ nhu cầu thanh toán đối với hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu từ các quốc gia. Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và các yếu tố khác, hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi các quốc gia khác nhau cũng khác nhau.
Chính vì không thể sản xuất mọi thứ phục vụ cho nhu cầu của nước mình, chính vì vậy mà ngày nay nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia là điều tất yếu. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã giúp các quốc gia giải quyết vấn đề xuất nhập khẩu hàng hoá.
– Thanh toán quốc tế với ngân hàng thương mại: Trong thương mại quốc tế, các chủ thể xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng thanh toán trực tiếp cho nhau mà thường sẽ thanh toán thông qua các ngân hàng thương mại có mạng lưới chi nhánh và ngân hàng đại lý rộng khắp toàn cầu. Hoạt động thanh toán quốc tế về cơ bản được hiểu là hoạt động sinh lời của ngân hàng. Ngày nay, nghiệp vụ thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ thanh toán quốc tế cũng đã giúp các chủ thể đem lại nguồn thu đáng kể không chỉ về số lượng tuyệt đối mà cả về tỷ trọng.
2. Tìm hiểu về ngân hàng chỉ định:
Chúng tôi hiểu ngân hàng được chỉ định như sau:
Ngân hàng về cơ bản là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính nhận tiền gửi và chuyển các khoản tiền gửi này vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường vốn. Ngân hàng còn là cầu nối giữa các chủ thể là khách hàng thiếu vốn và khách hàng thừa vốn. Ngân hàng chỉ định về cơ bản được hiểu là ngân hàng mà thư tín dụng có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu. Đối với các thư tín dụng có giá trị tự do, tất cả các ngân hàng đều có thể trở thành ngân hàng được chỉ định.
Chúng ta hiểu rằng giao dịch L/C hay còn gọi là giao dịch tín dụng thư, giao dịch L/C thực chất là một phương thức tín dụng chứng từ, trong đó một tổ chức tài chính (thường là ngân hàng) đồng ý thanh toán một khoản tiền có điều kiện bằng văn bản cho người thụ hưởng L/C với điều kiện đối tượng là người thụ hưởng phải xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản quy định trong thư tín dụng, phù hợp với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) được dẫn chiếu trong tín dụng và theo các tiêu chuẩn của Ngân hàng Quốc tế. Thực hành để có thể kiểm tra chứng từ theo phương thức tín dụng chứng từ (ISBP).
Trách nhiệm của Ngân hàng được chỉ định đối với việc xác minh chứng từ trên thực tế sẽ giống như trách nhiệm của Ngân hàng phát hành khi nhận được chứng từ.
Ngân hàng được chỉ định trong tiếng Anh là gì? Ngân hàng chỉ định trong tiếng Anh được sử dụng bằng cụm từ Designated Bank.
L/C hợp lệ cho ngân hàng chỉ định (có sẵn từ ngân hàng chỉ định):
F
Trên đây là sơ đồ hoạt động L/C có hiệu lực tại ngân hàng chỉ định.
– Chúng tôi hiểu Sơ đồ quy trình nghiệp vụ L/C Ngân hàng chỉ định có giá trị như sau:
(1) Các bên là hai bên ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với điều kiện thanh toán theo phương thức L/C.
(2) Căn cứ vào các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại thương, Người nhập khẩu làm đơn yêu cầu ngân hàng phục vụ mình yêu cầu ngân hàng đó phát hành một thư tín dụng cho đối tượng là Người xuất khẩu.
(3) Căn cứ yêu cầu mở L/C, nếu được đồng ý, Ngân hàng phát hành lập L/C và thông qua ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình tại nước xuất khẩu nhằm mục đích thông báo L/C./C cho chủ thể là người xuất khẩu. (4) Khi nhận được thư tín dụng, ngân hàng thông báo thông báo thư tín dụng cho chủ thể là người xuất khẩu.
(5) Chủ thể là người xuất khẩu kiểm tra L/C xem có phù hợp với hợp đồng đã ký kết không thì giao hàng, nếu không phù hợp thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng ngoại thương.
(6) và (6′) Sau khi giao hàng, đối tượng là người xuất khẩu chuẩn bị các chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng chỉ định để thanh toán.
(7) và (7′) Ngân hàng được chỉ định xuất trình chứng từ cho Ngân hàng phát hành và sẽ yêu cầu hoàn trả.
(8) Ngân hàng phát hành thu tiền từ đối tượng nhập khẩu và chuyển chứng từ cho đối tượng nhập khẩu sau khi chứng từ đã được đối tượng nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận. – Cần lưu ý các vấn đề sau:
Việc thể hiện hai ngân hàng là Ngân hàng thông báo và Ngân hàng chỉ định trong Sơ đồ quy trình nghiệp vụ L/C có hiệu lực tại Ngân hàng chỉ định nêu trên không có nghĩa là hai ngân hàng này sẽ phải hoàn toàn khác nhau, mà nhằm làm rõ các vấn đề sau:
Thông báo L/C và ủy quyền thanh toán hoặc chiết khấu L/C là hai nghiệp vụ độc lập. Hiểu cơ bản là ngân hàng thông báo không nhất thiết phải đồng thời là ngân hàng chỉ định.
Trên thực tế, Ngân hàng Thông báo thường là Ngân hàng được chỉ định. Như vậy, thấy rằng trên thực tế, ngân hàng chỉ thông báo L/C sẽ không trở thành ngân hàng chỉ định; Nếu một ngân hàng thông báo của L/C được chỉ định để thanh toán hoặc chiết khấu L/C, thì ngân hàng đó sẽ là cùng một ngân hàng thông báo và cùng một ngân hàng được chỉ định.
Ngân hàng về cơ bản là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính nhận tiền gửi và chuyển các khoản tiền gửi này vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua thị trường vốn. Ngân hàng còn là cầu nối giữa các chủ thể là khách hàng thiếu vốn và khách hàng thừa vốn. Ngân hàng chỉ định về cơ bản được hiểu là ngân hàng mà thư tín dụng có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu. Đối với các thư tín dụng có giá trị tự do, tất cả các ngân hàng đều có thể trở thành ngân hàng được chỉ định.
Chúng ta hiểu rằng giao dịch L/C hay còn gọi là giao dịch tín dụng thư, giao dịch L/C thực chất là một phương thức tín dụng chứng từ, trong đó một tổ chức tài chính (thường là ngân hàng) đồng ý thanh toán một khoản tiền có điều kiện bằng văn bản cho người thụ hưởng L/C với điều kiện đối tượng là người thụ hưởng phải xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản quy định trong thư tín dụng, phù hợp với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) được dẫn chiếu trong tín dụng và theo các tiêu chuẩn của Ngân hàng Quốc tế. Thực hành để có thể kiểm tra chứng từ theo phương thức tín dụng chứng từ (ISBP).
Trách nhiệm của Ngân hàng được chỉ định đối với việc xác minh chứng từ trên thực tế sẽ giống như trách nhiệm của Ngân hàng phát hành khi nhận được chứng từ.
Ngân hàng được chỉ định trong tiếng Anh là gì? Ngân hàng chỉ định trong tiếng Anh được sử dụng bằng cụm từ Designated Bank.
L/C hợp lệ cho ngân hàng chỉ định (có sẵn từ ngân hàng chỉ định):
F
Trên đây là sơ đồ hoạt động L/C có hiệu lực tại ngân hàng chỉ định.
– Chúng tôi hiểu Sơ đồ quy trình nghiệp vụ L/C Ngân hàng chỉ định có giá trị như sau:
(1) Các bên là hai bên ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương với điều kiện thanh toán theo phương thức L/C.
(2) Căn cứ vào các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại thương, Người nhập khẩu làm đơn yêu cầu ngân hàng phục vụ mình yêu cầu ngân hàng đó phát hành một thư tín dụng cho đối tượng là Người xuất khẩu.
(3) Căn cứ yêu cầu mở L/C, nếu được đồng ý, Ngân hàng phát hành lập L/C và thông qua ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình tại nước xuất khẩu nhằm mục đích thông báo L/C./C cho chủ thể là người xuất khẩu. (4) Khi nhận được thư tín dụng, ngân hàng thông báo thông báo thư tín dụng cho chủ thể là người xuất khẩu.
(5) Chủ thể là người xuất khẩu kiểm tra L/C xem có phù hợp với hợp đồng đã ký kết không thì giao hàng, nếu không phù hợp thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp đồng ngoại thương.
(6) và (6′) Sau khi giao hàng, đối tượng là người xuất khẩu chuẩn bị các chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng chỉ định để thanh toán.
(7) và (7′) Ngân hàng được chỉ định xuất trình chứng từ cho Ngân hàng phát hành và sẽ yêu cầu hoàn trả.
(8) Ngân hàng phát hành thu tiền từ đối tượng nhập khẩu và chuyển chứng từ cho đối tượng nhập khẩu sau khi chứng từ đã được đối tượng nhập khẩu thanh toán hoặc chấp nhận. – Cần lưu ý các vấn đề sau:
Việc thể hiện hai ngân hàng là Ngân hàng thông báo và Ngân hàng chỉ định trong Sơ đồ quy trình nghiệp vụ L/C có hiệu lực tại Ngân hàng chỉ định nêu trên không có nghĩa là hai ngân hàng này sẽ phải hoàn toàn khác nhau, mà nhằm làm rõ các vấn đề sau:
Thông báo L/C và ủy quyền thanh toán hoặc chiết khấu L/C là hai nghiệp vụ độc lập. Hiểu cơ bản là ngân hàng thông báo không nhất thiết phải đồng thời là ngân hàng chỉ định.
Trên thực tế, Ngân hàng Thông báo thường là Ngân hàng được chỉ định. Như vậy, thấy rằng trên thực tế, ngân hàng chỉ thông báo L/C sẽ không trở thành ngân hàng chỉ định; Nếu một ngân hàng thông báo của L/C được chỉ định để thanh toán hoặc chiết khấu L/C, thì ngân hàng đó sẽ là cùng một ngân hàng thông báo và cùng một ngân hàng được chỉ định.
Nội dung bài viết:
Bình luận