Công vụ là công việc của nhà nước do đội ngũ cán bộ, công chức tiến hành vì lợi ích chung, lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Hoạt động công vụ được thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước vì lợi ích của xã hội, lợi ích của nhà nước và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hoạt động công vụ có tính tổ chức cao, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Hoạt động công vụ chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực hiện. Công vụ có thể hiểu là một hệ thống các khối xây dựng bao gồm các thiết chế, đội ngũ, tổ chức và các điều kiện để thực hiện chức năng công. Vì vậy, yêu cầu khách quan ở các quốc gia luôn là xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng để các công việc chung của nhà nước và xã hội được giải quyết kịp thời, hiệu quả. Đối với Việt Nam, yêu cầu khách quan xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
1.Thứ nhất, do tính chất phục vụ người dân Việt Nam và xu thế phát triển tất yếu của nền công vụ toàn cầu là hướng tới sự liên kết, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài.
Nền công vụ xét về bản chất là phục vụ, thực hiện công việc chung của nhà nước do đội ngũ công chức nhà nước thực hiện vì lợi ích chung, lợi ích công cộng, lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, do pháp luật quy định. Ở Việt Nam, vì lợi ích của nhà nước, cộng đồng và xã hội thống nhất với lợi ích của nhân dân nên nền công vụ mang tính chất của nền công vụ là phục vụ nhân dân. Một công sở phục vụ Nhân dân không thể là một công sở cồng kềnh, nhiều tầng nấc, được vận hành bởi những con người chỉ biết làm, biết làm và biết làm, nhưng máy móc khi thi hành công vụ, không có nhân văn, không có đạo đức. Như vậy, nền công vụ phục vụ Nhân dân đòi hỏi thiết chế tư pháp, bộ máy, cơ chế vận hành và các điều kiện thực thi chức năng công quyền phải đồng bộ, liên thông và thống nhất; đội ngũ người dân - công chức phải chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Nếu thể chế pháp luật, bộ máy, cơ chế vận hành và các điều kiện thực thi công vụ không đồng bộ, liên thông và thiếu đồng bộ thì đội ngũ cán bộ - công chức có tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài sẽ không đảm đương được nhiệm vụ của mình. . Ngược lại, nếu thể chế pháp luật, bộ máy, cơ chế hoạt động và các điều kiện thực hiện chức năng công quyền đồng bộ, liên thông, thống nhất mà đội ngũ cán bộ - công chức thiếu chuyên nghiệp, thiếu trách nhiệm, không năng động, tài giỏi thì sẽ không có khả năng thi hành công vụ. Bản chất của nền công vụ là phục vụ công dân và xu thế tất yếu hướng tới sự phát triển của nền công vụ toàn cầu đòi hỏi chúng ta phải hướng tới một nền công vụ gắn kết, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng. Vì vậy, việc xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng là phù hợp với xu thế phát triển khách quan của nền công vụ hiện đại. Mặc dù nền công vụ theo mô hình chuyên nghiệp: “Việc công chức thực hiện chức năng công vụ của mình được Nhà nước bảo vệ cả về vật chất và tinh thần. Theo đó, những người làm việc trong hệ thống công vụ là công chức, đại diện cho nhà nước thực hiện quyền hành pháp. Khi chính thức bước vào nền công vụ, công chức được bảo đảm làm việc suốt đời và bản thân họ xác định được một nghề lâu dài”, hay theo mô hình tuyển dụng “theo vị trí việc làm”(1), cũng cần hướng tới thực hiện các nhiệm vụ chính thức của họ với khả năng tốt nhất của họ. Hiện nay, chưa có một mô hình công vụ tối ưu bởi hiệu quả của nền công vụ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng nhìn chung, nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng là nền công vụ mà mọi quốc gia phải hướng tới. Chỉ trên nền tảng của một nền công vụ như vậy thì các công việc công của xã hội và của nhà nước mới được thực hiện một cách hiệu quả nhất, kịp thời nhất và với chi phí thấp nhất. Vì vậy, mô hình nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng là xu hướng phát triển chung của nền công vụ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, hình thức giống nhau, nhưng bản chất là khác nhau. Ví dụ, bản chất công vụ của chúng ta là phục vụ toàn dân, công vụ khác cũng là phục vụ nhưng cơ bản là phục vụ số ít, phục vụ người giàu, phục vụ người có tiền mua dịch vụ công. Vì vậy, cơ cấu nền công vụ của chúng ta cần linh hoạt, thuận tiện cho người dân, trên cơ sở công khai, minh bạch, người dân vừa là chủ thể, vừa là đối tượng phục vụ của nền công vụ này.

Nền công vụ là gì
2.Thứ hai, yêu cầu của bối cảnh mới đòi hỏi phải xây dựng nền công vụ liên thông, đoàn kết, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển nhưng cũng bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế và chiến tranh thương mại gay gắt. Do tác động của đại dịch Covid-19, thế giới đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về nhiều mặt. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra những đột phá trong nhiều lĩnh vực, mang lại cả cơ hội và thách thức cho tất cả các quốc gia. Các nước đang điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển để thích ứng với tình hình mới. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục chiếm vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Ở Đông Nam Á, môi trường an ninh và tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông vẫn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng tác động ngày càng mạnh mẽ, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và nước ta”(2). Tình hình khu vực và thế giới đã có nhiều thay đổi, thực tiễn đang biến đổi nhanh chóng, diễn biến khó lường, chủ nghĩa xã hội hiện thực đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh. Bối cảnh đó đòi hỏi nền công vụ các nước nói chung và Việt Nam nói riêng phải đổi mới theo hướng liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài. Nền công vụ cũng được yêu cầu phải thích ứng nhanh với tình hình. Thể chế, tổ chức và các điều kiện thực thi công vụ không thể cứng nhắc, khép kín, trì trệ, bất động mà phải mềm dẻo, linh hoạt, thích ứng nhanh. Ngoài việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật số vào thực thi công vụ, còn phải có cơ chế, tổ chức, điều kiện thực thi công vụ phải liên thông, thống nhất đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Trong điều kiện đó, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý, công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Nếu đội ngũ cán bộ công chức dù giỏi chuyên môn, có kinh nghiệm nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu năng động, kém năng lực trong tình hình mới thì sẽ không thể thực hiện tốt nhất chức năng của mình. Ngược lại, có tài mà không có trách nhiệm, không chủ động trước những tình huống bất thường thì cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, bối cảnh mới, yêu cầu mới đòi hỏi nền công vụ vừa có hệ thống, tổ chức liên thông, thống nhất vừa có đội ngũ công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, tài năng.
3.Thứ ba, vì những hạn chế của nền công vụ ở Việt Nam.
Nhìn chung, cơ sở pháp lý của nền công vụ Việt Nam chưa đầy đủ, rõ ràng và còn nhiều hạn chế, lỗ hổng. Điều này dẫn đến việc cán bộ, công chức gặp khó khăn trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam chưa có định nghĩa chính xác và thống nhất về công chức và người thực hiện công vụ. Chẳng hạn, Nghị định 208/2013/NĐ-CP quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ với phạm vi khá rộng, bao gồm “Cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan”. cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giao nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ xã hội”. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ hoặc buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù. từ sáu tháng đến ba năm. Như vậy, BLHS xử lý hành vi chống chính quyền nhưng lại không quy định rõ ai là người thi hành công vụ. Khoản 1 mục 3 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2019 quy định: “Người thực hiện công vụ là người được bầu, phê chuẩn, tuyển dụng, bổ nhiệm vào chức vụ trong cơ quan của Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ liên quan đến quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan có thẩm quyền cử làm nhiệm vụ liên quan đến quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án'. Luật Cán bộ quản lý và công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) cũng không đề cập đến hoạt động chính thức của viên chức mà chỉ quy định “hoạt động nghề nghiệp của viên chức” (3). Để khắc phục tình trạng này, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý, quy định rõ đối tượng là công chức. Nếu cơ sở pháp lý không rõ ràng thì không thể có tổ chức dịch vụ công liên thông, thống nhất. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đánh giá: “Hệ thống pháp luật còn một số quy định thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn”(4), trong đó có Luật Công chức. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(5).
Đánh giá những hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức, Đảng ta chỉ rõ: “Số lượng đội ngũ cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công vẫn còn quá lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”(6). Tuy Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII không dùng khái niệm “công chức”, nhưng rõ ràng liên quan đến đội ngũ cán bộ thực thi công vụ của nước ta. Trên tinh thần đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, nhanh chóng thay thế những cán bộ không làm tròn nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín với nhân dân. Xuất phát từ những hạn chế về cơ sở pháp lý của nền công vụ cũng như những hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam, cần phải từng bước xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Hoàn thành nhiệm vụ này có nghĩa là chúng ta một mặt khắc phục những hạn chế của công vụ, mặt khác giữ vững bản chất công vụ là phục vụ nhân dân. đồng thời là hiện thực hóa yêu cầu khách quan xây dựng nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm giải trình, năng động và tài năng.
4.Thứ tư, xuất phát từ mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói chung, cải cách nền hành chính nhà nước nói riêng.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(8) . Trên cơ sở đó, Đảng ta xác định phương hướng phát triển cho những năm tới như sau: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vững mạnh, tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả, phục vụ nhân dân và vì sự phát triển của đất nước”. tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phạm pháp và các tệ nạn xã hội tệ nạn”(9) Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này và phương hướng phát triển, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Mặt khác, để bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước thì các hoạt động của Nhà nước, trong đó có hoạt động công vụ phải công khai, minh bạch, có trách nhiệm giải trình, có kiểm soát gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật và tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực hiện được yêu cầu này cũng chính là góp phần xây dựng được nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài. Hiện nay, chúng ta đang triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hành chính nhà nước đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm: “Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”(10), nâng cao trách nhiệm giải trình; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp tinh gọn, thông suốt và hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân. Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về nền hành chính nhà nước, nhưng đều có điểm chung cho rằng nền hành chính nhà nước là hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, nguồn lực công và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp của Nhà nước theo quy định pháp luật. Như vậy, nền hành chính nhà nước và nền công vụ của một quốc gia có những điểm chung thống nhất và liên hệ mật thiết với nhau. Bởi vì, công vụ là hoạt động do cán bộ, công chức thừa hành, nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội. Ở Việt Nam, nền hành chính Nhà nước và nền công vụ có đặc điểm chung là phục vụ Nhân dân; Hoạt động công vụ và hoạt động hành chính do pháp luật quy định, do đội ngũ thừa hành viên, công chức, viên chức hoặc người được Nhà nước ủy thác thực hiện, trên cơ sở nguồn lực công nhất định. Như vậy, để xây dựng một nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả thì không thể không xây dựng một nền hành chính nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Ngược lại, phải dựa trên nền tảng một nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, bảo đảm quản lý đồng bộ, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Việc triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 buộc chúng ta phải xây dựng một nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và tài năng. Các yếu tố này là tất yếu, khách quan, có mối liên hệ, phụ thuộc lẫn nhau và tác động đến quá trình xây dựng nền công vụ hiện đại ở nước ta.
Nội dung bài viết:
Bình luận