1.Nâng cao năng lực thực hành của đội ngũ cán bộ - yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ mới
Năng lực thực tiễn của cán bộ là tập hợp các thuộc tính tạo thành năng lực giúp cán bộ thực hiện có hiệu quả hoạt động thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ theo chức trách. Bài viết phân tích nội dung năng lực thực tiễn và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Tổng quan về khả năng thực tế của nhân viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Làm ăn là gốc”(1); “Muôn việc thành công hay thất bại đều do người điều hành tốt hay xấu”(2). Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, Đảng và Nhà nước luôn đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài đảm đương nhiệm vụ cách mạng.
Đảng ta cho rằng đa số cán bộ có lập trường tư tưởng vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, đồng thời nêu rõ tình trạng một số cán bộ nói nhiều, làm ít. thậm chí làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, “năng lực tổ chức, thực hiện của công chức chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ”(3). Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế về nhân sự là năng lực thực hành chưa tương xứng với yêu cầu công việc, trong khi nhiều cơ quan, đơn vị chưa quan tâm nâng cao năng lực thực hành cho cán bộ. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng lãnh đạo, uy tín của cán bộ trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, nâng cao năng lực thực hành của đội ngũ nhân sự là yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ mới.
Năng lực thực tiễn của cán bộ là tập hợp các thuộc tính tạo thành năng lực giúp cán bộ hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ theo chức trách, nhiệm vụ được giao. Năng lực thực tiễn của cán bộ được tạo nên bởi khả năng xác định mục tiêu, phương pháp, cách thức, lực lượng và phương tiện có đúng đắn và phù hợp hay không; phát hiện và giải quyết mâu thuẫn để tạo động lực hoạt động; hình thành sự say mê gắn bó với nghề và kiểm chứng, đánh giá kết quả hoạt động thực tiễn. Thực tiễn không chỉ là cơ sở của mục đích, động cơ, tiêu chuẩn để kiểm tra lý thuyết mà thông qua thực tiễn giúp cán bộ học tập và trưởng thành. Theo đó, năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
xác định mục đích của hoạt động thực hành.
Xác định mục đích của quá trình hoạt động được coi là một trong những nội dung cơ bản của năng lực thực hành. Bởi vì, không chỉ bởi mục tiêu là bản chất, là linh hồn chi phối mọi nội dung và phương thức hoạt động của con người, mà còn bởi sự khó xác định và giữ vững mục tiêu trong quá trình hoạt động thực tiễn; đồng thời phải xác định mục đích của từng giai đoạn, từng thời kỳ của hoạt động thực tiễn này. Mặt khác, việc giữ vững mục tiêu trong hoạt động thực tiễn còn là kết quả của quá trình đấu tranh chống lại các hoạt động ngăn chặn, cản trở của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, thậm chí cả sự chống phá của các thế lực thù địch. Kiên định với mục đích đã chọn là một trong những nội dung và là tiêu chí chủ yếu để đánh giá năng lực thực tiễn của công chức. Thực vậy, mục đích của hoạt động thực tiễn chưa rõ ràng, có biểu hiện “nghĩ dài dài”, khiến việc tổ chức thực hiện thiếu bài bản, thiếu quyết liệt, dẫn đến hiệu quả công việc còn hạn chế.
Thứ hai, xác định và sử dụng thế mạnh, phương tiện để tham gia hoạt động thực tiễn.
Việc xác định, khơi dậy, tập hợp và sử dụng có hiệu quả sở trường, phương tiện để hoàn thành nhiệm vụ nhằm đạt mục tiêu đề ra là phẩm chất quan trọng tạo nên năng lực thực tiễn của người quản lý. Các lực lượng và phương tiện mà các nhà quản trị sử dụng để đạt được mục tiêu luôn tồn tại ở cả trạng thái thực tế và tiềm năng. Vì vậy, cần xác định rõ lực lượng hiện có, phương tiện và năng lực có thể huy động để không rơi vào ảo tưởng, viển vông. Ngoài ra, cần phát hiện và sử dụng thế mạnh, phương tiện của các chủ thể khác để phát huy sức mạnh tổng hợp nhằm đạt kết quả cao nhất, hiệu quả mục tiêu của mình. Việc sử dụng lực lượng, phương tiện không đúng nơi, đúng lúc, đúng thời điểm, không thích ứng với môi trường, hoàn cảnh sẽ làm hạn chế kết quả hoạt động thực tiễn, thậm chí dẫn đến thất bại.
Thứ ba, phát hiện và giải quyết kịp thời, chính xác các mâu thuẫn trong hoạt động thực tiễn.
Việc phát hiện và giải quyết kịp thời, chính xác các mâu thuẫn, tạo động lực để đạt được mục tiêu là yếu tố quan trọng thể hiện năng lực thực tiễn của công chức, nhất là đối với các hoạt động thực tiễn có quy mô lớn, thời gian dài, chủ đề phức tạp. Trên thực tế, vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý chưa xác định rõ mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn công việc như mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là gì; giữa mục đích và phương thức thực hiện; giữa lực lượng, phương tiện và phương pháp thực hiện nhiệm vụ; giữa cá nhân với tổ chức... để có giải pháp xử lý phù hợp, điều hành chính xác, nhanh chóng khi thực hiện các mục tiêu đề ra.
Thứ tư, kiên trì và say mê hoạt động thực tiễn.
Trong hoạt động thực tiễn của mỗi cán bộ luôn có sự thống nhất không thể tách rời giữa quyền lợi và nghĩa vụ, thuận lợi và khó khăn, thành công và thất bại. Người quản lý tâm huyết, dấn thân vào hoạt động thực tiễn sẽ sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ, không chỉ tìm thấy niềm vui khi thuận lợi, thành công mà còn tìm thấy niềm vui khi vượt qua khó khăn, thử thách, chinh phục những đỉnh cao, vượt lên chính mình và được xã hội ghi nhận, từ đó giúp họ không ngừng nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không ít cán bộ chưa tâm huyết với công việc, thiếu tinh thần vượt khó, ngại khó, ngại khổ, ngại khó, không dám nghĩ, dám làm, nhất là đối với những nhiệm vụ mới. Một trong những yêu cầu đối với người cán bộ trong hoạt động thực tiễn là “dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”(4), có như vậy năng lực thực tiễn của người cán bộ mới ngày càng được tăng cường.
Thứ năm, kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động thực tiễn.
Kiểm tra, đánh giá kết quả kịp thời, xác định đúng nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc là phẩm chất quan trọng tạo nên năng lực thực tiễn của cán bộ. Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động thực tiễn thực chất là một quá trình tự giác nên đòi hỏi người cán bộ phải có thái độ nghiêm túc, phương pháp khoa học thể hiện ý chí, quyết tâm thực hiện mục tiêu đã xác định. Trong kiểm tra, đánh giá phải sử dụng lực lượng phù hợp để phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, từ đó rút kinh nghiệm, điều chỉnh kế hoạch, đề ra phương hướng, giải pháp mới cho hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao. Thực tiễn cho thấy, vẫn còn một bộ phận cán bộ coi nhẹ công tác kiểm tra, đánh giá, biểu hiện ở phương pháp, cách làm còn đơn giản, thiếu sâu sát, kỹ lưỡng, máy móc dẫn đến làm sai lệch kết quả đạt được hoặc kiểm tra, đánh giá không thực chất làm cho hoạt động thực tiễn kém hiệu quả.
Một số giải pháp nâng cao năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới
Thứ nhất, Đảng và nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chủ trương, chính sách khuyến khích, động viên cán bộ nâng cao năng lực thực tiễn.
Cần thể chế hóa, cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ bằng các quy định, chính sách cụ thể. Theo đó, cần cụ thể hóa lợi ích của từng loại đối tượng, từng khung nhằm giải quyết hài hòa xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Xây dựng quy chế đối với cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương không phải là người địa phương để tránh “va chạm” trong hoạt động thực tiễn. Việc đào tạo, đề bạt cán bộ phải thông qua hoạt động thực tiễn, bởi tính chất phong phú, đa dạng, khó khăn, phức tạp của hoạt động thực tiễn đan xen giữa cũ và mới, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa thiện và ác, ranh giới giữa “thiện” và “ác” rất mong manh. Bên cạnh hiệu quả công việc, phải coi năng lực thực tiễn là thước đo quan trọng để đánh giá phẩm chất và năng lực của cán bộ. Vì vậy, cần có quy chế, quy định về “xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua hoạt động thực tiễn” (5) và “tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn” (6) .
Hai là, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát theo hướng nâng cao năng lực thực hành của người học.
Các học viện, nhà trường phải tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, gắn chặt giữa lý luận với thực tiễn để tạo thành đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần vượt ra khỏi sự cồng kềnh của trang bị lý thuyết, đổi mới theo hướng trang bị năng lực, tính sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng giải quyết vấn đề, vấn đề thực tiễn. Việc đổi mới chương trình, nội dung cần gắn chặt với đổi mới phương pháp đào tạo, ưu tiên, phát huy phương pháp truyền đạt đa chiều, “đối thoại, nêu tình huống”, cập nhật kiến thức mới, kích thích phát triển tư duy, kết hợp với hoạt động thực tiễn để nâng cao khả năng vận dụng vào thực tiễn của người học sau khi tốt nghiệp.
Chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phải bám sát thực tiễn từ bài giảng, thu hoạch, bài tập, tiểu luận, thi, kiểm tra đến viết luận văn, sơ đồ, luận văn, luận văn đều nhằm giúp người học phát huy năng lực thực hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Kinh nghiệm và thực tiễn phải đi đôi với nhau”(7).
Ba là, phát huy vai trò của cán bộ trong việc tự học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực thực tiễn.
Sau khi được đào tạo và khuyến khích, năng lực thực tiễn của cán bộ chỉ được nâng cao khi họ nhận thức rõ tầm quan trọng của năng lực thực tiễn với tư cách là đối tượng thụ hưởng của quá trình chuyển hóa. Cán bộ cần tích cực, chủ động tự học tập, trau dồi kiến thức, kỹ năng, rèn luyện ý chí, bản lĩnh, đồng thời lao vào hoạt động thực tiễn mới để nâng cao năng lực thực tiễn và hoạt động có hiệu quả. Các nhà quản lý cần kế thừa và phát huy những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, tìm tòi học hỏi kinh nghiệm để tránh những sai lầm của thế hệ đi trước, từ đó tìm ra những lối tắt, đi tắt đón đầu để nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn. Người cán bộ không chỉ học ở trường, học từ sách vở mà còn phải học từ nhân dân, tự học từ thực tế công việc. Đồng thời, cán bộ “cần học tập thực tế công việc, trải nghiệm thực tế. Học xong là tìm được phương hướng chính trị, làm được việc thực tiễn, làm được người tổ chức, lãnh đạo”(8). Người quản lý không chỉ có năng lực mà còn phải có uy tín trước tổ chức, trước nhân dân, bởi năng lực thực tiễn không chỉ là yếu tố góp phần tạo nên phẩm chất, năng lực toàn diện của người quản lý mà còn tạo nên uy tín của họ. Thông qua lời nói và việc làm, nhất là những hoạt động thiết thực hàng ngày đem lại lợi ích gần gũi, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, độc lập và vinh quang của Tổ quốc, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đội ngũ cán bộ mới được hình thành, củng cố và phát triển ngày càng cao. Bên cạnh đó, năng lực thực tiễn của cán bộ được hình thành dưới sự giúp đỡ của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, từ nhà trường, cơ sở đào tạo đến cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị nơi cán bộ công tác, tạo điều kiện để cán bộ phát huy khả năng thực tiễn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Nội dung bài viết:
Bình luận