Mối quan hệ pháp luật với chính trị [Chi tiết 2024]

1. Khái niệm pháp luật 

Theo định nghĩa, pháp luật là một hệ thống bao gồm các quy tắc xử sự chung do nhà nước thiết lập, việc thực hiện chúng là bắt buộc. Có biện pháp giáo dục hoặc cưỡng chế bảo đảm tuân theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Có thể thấy, định nghĩa của pháp luật bao gồm các yếu tố như:

 - Pháp luật là những quy tắc xử sự chung có bản chất pháp lý và đạo đức, được áp dụng chung cho cả nước, cho mọi chủ thể trong xã hội. - Đối với những quy định của pháp luật được áp dụng chung trong cộng đồng thì chủ thể không có quyền lựa chọn áp dụng hay không áp dụng. Vì pháp luật thường có giá trị ràng buộc và đảm bảo được thi hành. 

- Quá trình hình thành pháp luật là do nhà nước ban hành hoặc được nhà nước chấp nhận đối với những tập quán ban đầu có từ trước đã được làm thành luật. Nội dung của pháp luật thể hiện ý chí và bản chất của giai cấp thống trị. 

mối quan hệ pháp luật với chính trị

mối quan hệ pháp luật với chính trị

 

2. Đặc điểm của pháp luật Việt Nam 

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam hiện hành là pháp luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, diễn ra lâu dài với nhiều giai đoạn phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đan xen. Hiện nay, nước ta đã thoát khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. (Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI). Điều kiện kinh tế - xã hội đó tác động mạnh mẽ đến pháp luật nước ta hiện nay. 

Thứ hai, pháp luật là cơ sở và hành lang pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế; xác lập tư cách pháp nhân cho các loại hình doanh nghiệp; công nhận và bảo vệ quyền tự do kinh doanh; phát triển đồng bộ các loại thị trường; tôn trọng quy luật cung cầu; bảo đảm tự do cạnh tranh, chống độc quyền, chống gian lận trong sản xuất và phân phối, bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng... Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ở nước ta còn khá mới mẻ, nhiều vấn đề còn đang trong quá trình khám phá. Vì vậy, hệ thống thể chế pháp lý cho sự tồn tại và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang từng bước được hình thành và hoàn thiện. 

Thứ ba, pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của nhân dân, tức là hệ thống pháp luật của dân, do dân, vì dân mà nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Vì vậy, “Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ các quyền dân chủ rộng rãi của người lao động”). 

Thứ tư, pháp luật là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp xác định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Thực hiện vai trò lãnh đạo của mình, Đảng đề ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền, làm cho Đảng trở nên sống động và thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. 

Thứ năm, pháp luật xác lập cơ sở pháp lý để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng. Pháp luật quy định quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xác lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; củng cố và mở rộng dân chủ xã hội; Giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, xây dựng lối sống thượng tôn pháp luật trong xã hội... 

Thứ sáu, pháp luật dựa trên nền tảng đạo đức, truyền thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, tinh thần nhân đạo, lòng vị tha, tinh thần tập thể, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân cực đoan, tinh thần đoàn kết, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tinh thần tương thân tương ái và chia sẻ, tôn trọng giá trị gia đình, tôn trọng người già, trọng học, tinh thần tôn sư trọng đạo, chuyên cần, tiết kiệm... 

Thứ bảy, pháp luật đang được xây dựng và hoàn thiện. Công cuộc đổi mới đất nước càng đầy đủ, triệt để thì hệ thống pháp luật càng phải hoàn thiện. Sự phát triển về nhiều mặt của đời sống xã hội ngày càng mở rộng lĩnh vực áp dụng của pháp luật. Sự vận động, biến đổi nhanh chóng của các mối quan hệ kinh tế - xã hội đòi hỏi hệ thống pháp luật phải thường xuyên được bổ sung, sửa đổi để đáp ứng kịp thời nhu cầu của cuộc sống. 

Thứ tám, pháp luật chịu sự tác động mạnh mẽ của yếu tố quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đang tham gia sâu rộng vào quá trình hợp tác, hội nhập quốc tế, giao lưu quốc tế về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ... Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông quốc tế đang tăng lên từng ngày. Những yếu tố này tác động mạnh mẽ đến pháp luật nước ta, đòi hỏi các quy định pháp luật của Việt Nam phải đáp ứng các chuẩn mực chung của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. 

3. Khái niệm chính trị Chính trị

 là tập hợp các hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các tầng lớp xã hội, mà trung tâm của nó là vấn đề tiếp cận quyền lực, duy trì và sử dụng nước, tham gia vào các công việc của nhà nước; xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước. Chính trị liên quan đến lợi ích giai cấp và nhà nước. Chính trị thuộc kiến ​​trúc thượng tầng bao gồm hệ tư tưởng chính trị, nhà nước và các đảng phái chính trị phát sinh khi xã hội phân chia thành các giai cấp dựa trên cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Chính trị tồn tại chừng nào còn có giai cấp và nhà nước. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chính sách đó trước hết là bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hiệu quả quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của người lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống chính trị là tập hợp các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đảng phái, tổ chức xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan hệ giữa các lực lượng này, chỉ phối sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị. , chỉ ra bản chất của hệ thống chính trị đất nước, con đường phát triển của xã hội. 

4. Đặc điểm hệ thống chính trị ở Việt Nam 

Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam có một đảng lãnh đạo và cầm quyền duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị độc đảng cầm quyền. Trong một số giai đoạn lịch sử, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này có tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là nhất nguyên chính trị, không có đảng phái đối lập. Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, hoạt động như một hình thức tổ chức quyền lực nhân dân (nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại biểu của nhân dân cho ý chí, nguyện vọng của quần chúng ( Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội) cũng như tổ chức mà Đảng Cộng sản thông qua đó thực hiện quyền lãnh đạo chính trị đối với xã hội. Đảng cai trị xã hội chủ yếu thông qua nhà nước và các tổ chức quần chúng. Đường lối, chỉ thị, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp thu, thể chế hóa cụ thể bằng pháp luật và các chỉ thị, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng nhà nước và bộ máy của mình, đồng thời kiểm soát việc nhà nước thực hiện các nghị quyết của Đảng. Đảng cai trị xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng chỉ đạo công tác cán bộ bằng việc đề ra đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, tổ chức, giới thiệu cán bộ có đủ phẩm chất vào các cơ quan lớn của Nhà nước và các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục, nêu gương, vận động quần chúng, tiến hành thực hiện quy tắc dân chủ... 

Thứ hai, có tính nhất quán cao Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau nhưng có mối liên hệ chặt chẽ và quan hệ với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị đã tạo điều kiện phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn hệ thống. Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được quyết định bởi các yếu tố sau: Đảng thống nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của cả hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với các nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thống nhất trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ trung ương đến địa phương, với các bộ phận cấu thành. 

Thứ ba, mang bản chất dân chủ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Đây là đặc trưng nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị và quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị vừa có tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), vừa có tổ chức chính trị - xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Vì vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách rời khỏi nó (giống như các lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội bóc lột), mà là một bộ phận của xã hội, gắn liền với nó. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội là Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Sự gắn bó chặt chẽ giữa hệ thống chính trị với nhân dân thể hiện ở các yếu tố sau: Đó là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền. Nhà nước là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức của hệ thống chính trị là một phương tiện thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 

Bốn là, có sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân do các tổ chức thành viên đại diện trong hệ thống chính trị đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Vì vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và mang tính dân tộc sâu sắc. Lịch sử chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và xuất phát từ mục tiêu giải phóng dân tộc và bảo vệ độc lập dân tộc. Các giai cấp, các dân tộc đoàn kết đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, hợp tác cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là nhân tố quan trọng góp phần củng cố khối đoàn kết giai cấp và dân tộc. Sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc được khẳng định trong bản chất của mọi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội gắn liền vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp là tương đối và không có ranh giới rõ ràng. 

Thứ năm, được tổ chức và hoạt động bằng ngân sách nhà nước VNCC được tổ chức và hoạt động từ ngân sách nhà nước để thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, trả lương cho cán bộ điều hành và công chức.

 5. Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật. 

Giữa pháp luật và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cụ thể như sau:

 5.1 Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị trong việc hình thành và tổ chức bộ máy nhà nước: – Bộ máy nhà nước là toàn bộ hệ thống, từ trung ương đến địa phương, bao gồm nhiều loại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp… là một thiết chế phức tạp, nhiều bộ phận. Để xác định rõ chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm và phương thức tổ chức hoạt động phù hợp nhằm thực hiện một cơ chế đồng bộ trong quá trình xác lập và thực thi quyền lực nhà nước, việc này phải được thực hiện trên cơ sở vững chắc của các quy định pháp luật. – Khi hệ thống pháp luật về tổ chức chưa đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc thành lập và vận hành bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Ngoài ra, pháp luật còn quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi cá nhân trong bộ máy nhà nước. – Ngược lại, bộ máy nhà nước cũng tác động đến pháp luật. Một bộ máy nhà nước hoàn chỉnh đại diện cho các tầng lớp tiến bộ trong xã hội sẽ đưa ra một hệ thống pháp luật phù hợp với đất nước, thể hiện đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

 5.2 Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị trong quan hệ ngoại giao giữa các Quốc gia: Pháp luật luôn tạo môi trường ổn định cho việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia. Sự phát triển của quan hệ ngoại giao đòi hỏi luật pháp của các nước phải thay đổi để thích ứng với sự thay đổi của thời đại mỗi nước.

 5.3 Luật và Chính sách của Nhóm Cầm quyền: Mối quan hệ giữa chính trị và pháp luật thể hiện rõ nhất trong mối quan hệ về đường lối, chính sách của đảng cầm quyền và pháp luật của nhà nước. Pháp luật thể chế hóa chính trị của đảng cầm quyền, tức là nó biến ý chí của đảng cầm quyền thành ý chí của nhà nước. Đường lối, chính sách của Đảng có vai trò định hướng nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật. Sự thay đổi chính sách của đảng cầm quyền sớm muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi của luật pháp. Chẳng hạn, trong những năm gần đây, do định hướng của chính sách, pháp luật các nước xã hội chủ nghĩa đều xác lập và củng cố cơ chế quản lý kinh tế tập trung, bao cấp, trên cơ sở xác lập nhanh nhất chế độ công hữu. Phương hướng phát triển của pháp luật trong một quốc gia được định hướng bởi đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền (Đảng cầm quyền). Tất nhiên, tính chất chính trị của lực lượng cầm quyền phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và sự đấu tranh giữa các lực lượng chính trị - xã hội trong nước. 

6. Câu hỏi và Điều khoản Thường gặp Về Chính sách và Pháp luật 

6.1 Khái niệm hệ thống pháp luật?

 Hệ thống pháp luật Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, phương châm và mục tiêu điều chỉnh của pháp luật có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, được phân chia thành các ngành luật, pháp luật và được phản ánh trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có liên quan của Việt Nam ban hành. . 

6.2 Khái niệm hệ thống chính trị?

 Hệ thống chính trị là tập hợp các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đảng phái, tổ chức xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia, và mối quan hệ giữa các lực lượng này, chỉ phối sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị. , chỉ ra bản chất của hệ thống chính trị đất nước, con đường phát triển của xã hội. 

6.3 Khái niệm chế độ chính trị?

 Chế độ chính trị là hệ thống những nguyên tắc, phương pháp, biện pháp, thủ đoạn thực hiện quyền lực nhà nước. Bài viết phân tích khái niệm và cách hiểu về chế độ chính trị, đồng thời phân tích mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo