I. Thiết lập quyền tài phán Hiến pháp đối với Cơ quan lập pháp: Trao quyền “bảo vệ Hiến pháp mềm” cho Tòa án Nhân dân và/hoặc Hội đồng Hiến pháp
1.1. Cần thiết lập quyền tài phán hiến pháp đối với quyền lập pháp
Một số quốc gia trao quyền cho Hội đồng Hiến pháp, trong khi một số hiến pháp, trong đó có Việt Nam, bỏ ngỏ cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách và trao quyền cho các cơ quan khác nhau để thực hiện chức năng, quyền hạn trong phạm vi nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, cùng với sự ra đời của tư tưởng pháp quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, cần đề xuất những thay đổi, đổi mới mô hình bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam. Hiến pháp 2013 lần đầu tiên quy định: “Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý... Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do pháp luật quy định” (Điều 119 Hiến pháp 2013). Ở Việt Nam và các quốc gia có truyền thống nghị viện (Quốc hội), việc thừa nhận quyền tài phán hiến pháp đối với cơ quan lập pháp gặp phải những trở ngại lớn xuất phát từ một số vấn đề/câu hỏi cơ bản: quyền tài phán đối với quyền lập pháp có đi ngược lại lý thuyết và quan niệm dân chủ? Điều này có đi ngược với quan điểm cho rằng Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất? Tại sao cơ quan xét xử có quyền kháng nghị, xem xét lại quyết định của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất? Điều này có ủng hộ việc thành lập “chính phủ của các quan tòa” không?
Trước hết, phải khẳng định rằng quyền lập pháp của Quốc hội cũng phải được tổ chức và thực hiện trong khuôn khổ Hiến pháp và phải có cơ chế kiểm tra, bảo đảm sự phù hợp của quyền lập pháp với Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất, là khế ước xã hội và phản ánh chủ quyền của nhân dân. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội, cũng là trái với chủ quyền tối cao của nhân dân. Luật hiến pháp là luật gốc, quyền xác lập các quyền khác, trong đó có quyền lập pháp. Quyền lập pháp phải được tổ chức và thực thi trong khuôn khổ Hiến pháp. Vì vậy, việc thẩm tra tính hợp hiến của quyền lập pháp (các đạo luật) của Quốc hội không phải là phủ nhận ý chí của nhân dân mà ngược lại, bảo vệ ý chí chung của nhân dân. Với quan niệm này, các đạo luật hay Quốc hội sẽ không phải là tối cao và không thể kiểm soát mà Hiến pháp là tối cao.
Thứ hai, thẩm quyền hiến định của tòa án và các cơ quan tài phán độc lập là một trong những yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Quyền lập pháp và hành pháp là những nhánh quyền lực mạnh mẽ và do đó dễ bị lạm dụng. Khác với lập pháp và hành pháp, tư pháp là nhánh quyền lực yếu hơn so với lập pháp và hành pháp. Hơn nữa, trong một nền dân chủ thừa nhận sự phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ quan tư pháp được hình thành độc lập có trách nhiệm duy trì hiến pháp với tư cách là luật tối cao của một quốc gia, bảo vệ tự do và dân chủ bằng cách chống lại sự tập trung. quyền lực trong nhà nước. Nếu như lập pháp, hành pháp là những ngành quyền lực đại diện cho nhà nước và chính trị thì tư pháp lại đại diện cho công lý để bảo vệ các quyền tự nhiên vốn có mà mọi người sinh ra phải được hưởng. Cho nên có tác giả cho rằng: “Giới hạn quyền lực nhà nước và bảo vệ quyền cá nhân sẽ không có ý nghĩa gì nếu không có những định chế kìm chế quyền lực của đa số. Do đó, tư pháp là một công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền của thiểu số trong khi hai ngành quyền lực còn lại lại phúc đáp cho đa số.” Với ý nghĩa như vậy, tư pháp không chỉ là một ngành quyền lực ít có nguy cơ lạm quyền, ít nguy hiểm đối với các quyền hiến định của công dân, mà còn là một ngành quyền lực được tạo ra nhằm để giải quyết các khiếu nại của công dân khi các quyền hiến định của công dân bị chính quyền vi phạm.[3] Quyền lập pháp là đại diện cho đa số, nhưng không được trái với các quyền và tự do cơ bản được quy định trong Hiến pháp. Theo nghĩa này, quyền tài phán hiến pháp đối với quyền lập pháp đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ các quyền và tự do cơ bản – nền tảng cơ bản của “Dân chủ hợp hiến” (constitutional democracy).[4] Phù hợp với tư duy pháp quyền, các tòa án thường hay Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng Hiến pháp được trao quyền bảo hiến pháp trước mọi sư vi phạm, kể cả quyền lập pháp.
1.2. Cần phải có cơ chế phù hợp để hiện thực hóa quyền tài phán hiến pháp đối với quyền lập pháp
Việc thảo luận đề xuất mô hình bảo hiến đã được thảo luận khá nhiều trong quá trình xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 2013. Trong quá trình này, mô hình tòa án nhân dân bảo vệ hiến pháp không được giới học thuật ủng hộ. Lý do chính được đưa ra là Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với truyền thống pháp luật châu Âu - nền tảng dẫn đến việc từ chối mô hình hiến pháp Mỹ trao quyền hiến định cho tòa án thông thường để ủng hộ sự ra đời của một loại tòa án đặc biệt - Tòa án Hiến pháp. Tòa án. Bên cạnh đó, những bất cập của hệ thống tư pháp hiện hành cũng được coi là những cản trở lớn đối với việc phát huy vai trò của tòa án trong việc bảo vệ Hiến pháp. Trong khi đó, đề xuất thành lập Hội đồng Hiến pháp đã được đưa vào dự thảo Hiến pháp nhưng cuối cùng không được chấp nhận. Trong bối cảnh này, việc trao quyền hiến định cho tòa án hoặc đề xuất thành lập Hội đồng Hiến pháp có thể bị đặt câu hỏi về tính mong muốn hoặc tính khả thi của chúng ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả cho rằng việc trao quyền và phát huy vai trò của Tòa án nhân dân và/hoặc Hội đồng Hiến pháp vẫn còn nhiều triển vọng. Một mô hình khả thi để trao quyền tài phán hiến pháp cho tòa án nhân dân và/hoặc hội đồng hiến pháp là mô hình "bảo vệ hiến pháp mềm", trong đó các cơ quan bảo hiến đóng một vai trò tương đối hợp hiến. Trong cả hai trường hợp, việc đề cao các thể chế hợp hiến là không khoan nhượng.
Trước hết, tác giả cho rằng việc trao quyền tài phán hiến pháp cho Tòa án Hiến pháp không phải là một lựa chọn ở Việt Nam, ngay cả khi mô hình này có nhiều ưu điểm và giá trị, cụ thể là sự hiện diện của Tòa án Hiến pháp luật độc lập, có thẩm quyền rộng rãi, được lựa chọn để được nhiều nước trên thế giới, trong đó có nhiều nước đang trong quá trình chuyển đổi áp dụng. Có hai lý do chính cho tuyên bố này:
Thứ nhất, chính những ưu điểm và giá trị cơ bản của Tòa án Hiến pháp với tư cách là một Tòa án Hiến pháp độc lập, có thẩm quyền xét xử rộng rãi và mạnh mẽ đã khiến mô hình này không thể được chấp nhận và ra đời ở Việt Nam. . Một cách khái quát nhất, mặc dù chính sách Đổi mới hơn 30 năm qua đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực về thể chế, nhưng chưa đủ để thiết lập một Tòa án Hiến pháp như các quốc gia dân chủ khác.
Thứ hai, thực tiễn áp dụng mô hình bảo hiến ở các quốc gia chuyển đổi hoặc ít dân chủ cho thấy, trong rất nhiều quốc gia, các Tòa án Hiến pháp không những không phát huy được vai trò bảo vệ Hiến pháp, thúc đẩy pháp quyền mà ngược lại, trở thành công cụ hợp thức hóa, chính danh hóa các hành vi lạm quyền, chuyên chế của các nhà cầm quyền chuyên chính. Trên thực tế, vị trí độc lập của Tòa án Hiến pháp và các thẩm phán ở các quốc gia này không được bảo đảm, và khi đó, các quyền hạn rộng lớn của Tòa án Hiến pháp lại trở thành công cụ, phương tiện của các nhà cầm quyền sử dụng để phục vụ cho các lợi ích chính trị thiếu hoặc không chính đáng. Vì vậy, việc cải cách nâng cao tính độc lập và giảm bớt thẩm quyền của các Tòa án Hiến pháp đang được đặt ra như là một trong vấn đề cấp bách của các Tòa án Hiến pháp trong những nền dân chủ chuyển đổi.
Khi không thể thành lập Tòa án Hiến pháp, các lựa chọn khác có thể xem xét, đó là trao quyền tài phán hiến pháp cho các TAND và/hoặc thành lập Hội đồng Hiến pháp trong mô hình bảo hiến “mềm” - mô hình bảo hiến bởi một (các) thiết chế độc lập, có thẩm quyền hạn chế, hoạt động trong sự tương tác giữa cơ quan bảo hiến và Quốc hội. Bảo hiến “mềm” có nghĩa là phán quyết vi phạm hiến pháp chưa dẫn đến việc vô hiệu, hay mất giá trị pháp lý của văn bản, hành vi bị tuyên bố vi hiến, mà cho phép chủ thể ban hành văn bản hoặc có hành vi vi phạm thời gian, cơ hội để xem xét lại văn bản, quyết định của mình. Trong trường hợp không đồng ý hoặc phản đối quyết định của cơ quan bảo hiến, chủ thể của văn bản, đạo luật được xem xét, phải có đa số phiếu tuyệt đối. Tòa án nhân dân và/hoặc Hội đồng Hiến pháp có tiếng nói cuối cùng về các quyết định hiến pháp.
Mô hình bảo hiến “mềm” do tác giả đề xuất dựa trên lý thuyết hợp hiến tương đối phát triển ở một số quốc gia có truyền thống nghị viện mạnh như Canada, Vương quốc Anh và New Zealand. Trong mô hình này, các tòa án độc lập có quyền phân tích và phán quyết về tính không tương thích của luật với các quy phạm hiến pháp, nhưng đồng thời cho phép cơ quan lập pháp (Nghị viện) phản hồi bằng cách: hoặc sửa đổi quyết định của tòa án, hoặc sửa đổi luật cho phù hợp với quy phạm hiến pháp. tiêu chuẩn. Cơ sở lý luận của sơ đồ hiến pháp này như sau: thứ nhất, có những bất đồng không thể tránh khỏi về mặt logic trong việc giải thích một điều khoản hiến pháp do tính trừu tượng vốn có của ngôn ngữ hiến pháp; thứ hai, do đó, cần có sự đối thoại giữa cơ quan bảo hiến và cơ quan lập pháp trong vấn đề giải thích hiến pháp. Đó là một cơ chế cho phép tăng cường cảnh giác trong các vấn đề hiến pháp, bao gồm cả khả năng của người dân và các đại diện của họ để phản ứng kịp thời khi một quyết định hiến pháp rõ ràng là sai. ]. Nói cách khác, mô hình này thể hiện sự hài hòa giữa lý thuyết hiến pháp và truyền thống nghị viện/nghị viện. Ở Việt Nam, truyền thống của Quốc hội cũng rất mạnh, theo đó cho phép nghiên cứu trao quyền hạn chế bảo vệ Hiến pháp cho tòa án nhân dân hoặc Hội đồng Hiến pháp.
Ngoài việc phù hợp với truyền thống của Quốc hội, mô hình bảo hiến “mềm” còn có một số ưu điểm có thể áp dụng ở Việt Nam:
- Phù hợp với cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước (chưa phân cấp);
- Phù hợp với văn hóa đối thoại và hợp tác trong xây dựng và thực thi chính sách.
Đối với tòa án nhân dân, pháp luật hiện hành trao cho tòa án quyền hạn rất hạn chế, chủ yếu là quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có liên quan xem xét, quyết định văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp, pháp luật (khoản 7, Mục 2 BLDS). Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014). Cần tăng thêm quyền hạn cho tòa án, đặc biệt là tòa án nhân dân trong hoạt động bảo vệ hiến pháp, theo nghĩa tòa án nhân dân có quyền phân tích và đưa ra phán quyết trực tiếp về tính hợp hiến hay vi hiến của đạo luật so với các quy phạm pháp luật và chuẩn mực hiến pháp. đề nghị Quốc hội xem xét lại quyết định. Tòa án cũng có thẩm quyền hiến định đối với văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, phán quyết của tòa án đối với văn bản quy phạm pháp luật dưới luật có hiệu lực thi hành ngay, các văn bản đó chỉ là văn bản dưới luật, không phải do Quốc hội ban hành. Ngay cả trong những trường hợp tòa án chưa sẵn sàng chuyển tiếp các vụ việc hiến pháp, tòa án nên đóng một vai trò quan trọng trong việc đề xuất các vụ việc hiến pháp cho cơ quan bảo lãnh khi cơ quan này được thành lập. Trên thực tế, tòa án thông qua phán quyết là chủ thể thuận lợi nhất để phát hiện các vi phạm hiến pháp.
Đối với Hội đồng Hiến pháp, việc thành lập một thiết chế chuyên trách bảo vệ hiến pháp có thể thúc đẩy các hoạt động bảo vệ hiến pháp. Việc hạn chế quyền hạn bảo vệ Hiến pháp trong tương tác với Quốc hội được coi là phù hợp trong mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp và Quốc hội. Việc thành lập Hội đồng Hiến pháp không làm giảm, mất vai trò của Toà án nhân dân trong hoạt động bảo hiến mà ngược lại, nó tạo thành cơ chế phân công, điều phối hoạt động bảo vệ hiến pháp.
Một trong những điều kiện cơ bản của quyền tài phán hiến định, nhưng cũng là khó khăn, thách thức lớn nhất là làm sao bảo đảm tính độc lập về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và Hội đồng Hiến pháp (nếu được thành lập). Mặc dù có nhiều nỗ lực được đề xuất và một số cải cách đã được thực hiện, việc đảm bảo tính độc lập của ngành tư pháp vẫn là một thách thức lớn ở Việt Nam hiện nay. Trong khi đó, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với tư cách là một thiết chế độc lập cũng là một thách thức, đặc biệt là trong quan hệ với Đảng. Thậm chí, có quan điểm cho rằng Hội đồng Hiến pháp ở Việt Nam, nếu được thành lập, sẽ khó phát huy ngay vai trò, vị thế, bởi thực tế, các xung đột lợi ích liên quan đến thực thi quyền lực ở Việt Nam hiện vẫn đang được xử lý bởi các thiết chế của Đảng.
II. Thực thi quyền giám sát của quyền lập pháp đối với quyền tư pháp: cân bằng trách nhiệm giải trình và độc lập tư pháp
2.1. Quốc hội có quyền giám sát các vụ án cụ thể
Theo Hiến pháp, “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều 26). Với vị trí hiến định đặc biệt như vậy, Quốc hội có quyền giám sát đối với nhánh quyền tư pháp, cụ thể như sau:
- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của TANDTC (Khoản 1 Điều 70);
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TANDTC; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC (Khoản 2 Điều 70)
- Bãi bỏ văn bản của TANDTC trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội (Khoản 7 Điều 70);
- Chánh án TANDTC phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBTVQH, Chủ tịch nước (Khoản 2 Điều 105)
Với các quy định trên, Quốc hội có thẩm quyền giám sát rất lớn đối với TANDTC, Chánh án TANDTC để đảm bảo các chủ thể này phải tuân thủ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Đây là một đặc điểm của mô hình Nhà nước XHCN Việt Nam, đồng thời được cho là phù hợp trong bối cảnh hệ thống tư pháp còn nhiều hạn chế, bất cập. Trước tình hình đó, hệ thống tư pháp, cụ thể là Tòa án nhân dân phải báo cáo với Quốc hội về những hạn chế, tồn tại của hệ thống tư pháp và có giải pháp, hành động tháo gỡ thực trạng, vấn đề đặt ra.
Tuy nhiên, việc quá đề cao trách nhiệm giải trình của Tòa án trước Quốc hội ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm nguyên tắc độc lập tư pháp. Quan điểm này thể hiện ở một số vấn đề sau:
Theo Hiến pháp và pháp luật hiện hành, Quốc hội có thẩm quyền xem xét các trường hợp cụ thể. Thực vậy, theo khoản 1 mục 2 Giải thích từ ngữ của Luật giám sát của Quốc hội thì giám sát là công việc của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban nhân dân cấp cao của Quốc hội. Quốc hội Đại biểu của đoàn, đại biểu Quốc hội chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, người chịu sự giám hộ trong việc áp dụng Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội. của Quốc hội. Theo cách hiểu này, xét xử với tư cách là hoạt động cơ bản của Tòa án, đồng thời chịu sự kiểm soát của quyền lập pháp. Theo quy định của pháp luật, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội có thẩm quyền tiến hành hoạt động kiểm sát vụ việc. Ví dụ, Ủy ban Tư pháp có quyền kiến nghị về những vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền khác, về vụ án hình sự, tố tụng hình sự và tố tụng dân sự, thủ tục hành chính… (khoản 6 Điều 71 của luật về tổ chức Quốc hội); Khi Ủy ban thường vụ Quốc hội phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh. ... (điều 25 luật giám sát Quốc hội); Quốc hội cũng thành lập các đoàn giám sát để giám sát các vụ việc cụ thể...
Thực vậy, Quốc hội, các ngành và đại biểu Quốc hội thường xuyên giám sát các trường hợp cụ thể. Đơn cử như vụ án Hồ Duy Hải, Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội đã trực tiếp giám sát và có ý kiến, kiến nghị về vụ việc này.
Việc cho phép cơ quan lập pháp giám sát cụ thể các vụ việc là không phù hợp với nguyên tắc độc lập tư pháp. Theo khoản 1 Điều 103 thì Thẩm phán, Hội thẩm phải xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Sự giám sát của Quốc hội đối với ngành tư pháp cần có giới hạn, và giới hạn cơ bản nhất của nó là không giám sát các vụ việc cụ thể.
2.2. Chánh án, Thẩm phán TAND được chính trị hóa bằng quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Vị trí và hoạt động của Chánh án TAND và các Thẩm phán được chính trị hóa bằng quy trình bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm và cơ chế chịu trách nhiệm, báo cáo công tác của Chánh án TAND. trong Quốc hội.
Chánh án Tòa án nhân dân được lựa chọn dựa trên quy trình chính trị tại Quốc hội – điều này không phù hợp với tính độc lập của người đứng đầu cơ quan tư pháp. Hầu như không nước nào có quy trình như Việt Nam. Quốc hội một số nước chỉ có quyền phê chuẩn, miễn nhiệm thẩm phán, cũng như quyền phê chuẩn đề xuất bổ nhiệm thẩm phán TAND ở Việt Nam. Tuy nhiên, Nghị viện với tư cách là một thiết chế chính trị rất có khả năng can thiệp làm ảnh hưởng đến tính độc lập của tư pháp. Vì vậy, theo một số quy định của luật pháp quốc tế, Nghị viện không được đóng vai trò quyết định trong việc bãi nhiệm thẩm phán. Các thủ tục của nghị viện đối với việc phê chuẩn và miễn nhiệm các thẩm phán cần được tiến hành trên cơ sở các điều kiện đảm bảo tính độc lập của tư pháp, chẳng hạn như yêu cầu rằng các thủ tục của nghị viện chỉ được tiến hành theo khuyến nghị của một ủy ban tư pháp độc lập trên cơ sở 'điều tra kỹ lưỡng, kiểm tra công bằng; cần phải có đa số tuyệt đối biểu quyết, thường là 2/3 hoặc ¾ tổng số đại biểu mới ra phán quyết bãi nhiệm thẩm phán…
Ở Việt Nam, việc thiếu vắng một ủy ban tư pháp độc lập cũng là một trong những nguyên nhân khiến quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm thẩm phán chưa thực sự công bằng, khách quan và chuyên nghiệp. Trong khi đó, hiện nay, pháp luật Việt Nam mới trao cho Quốc hội quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án TAND tối cao và các thẩm phán TAND. Theo kinh nghiệm quốc gia, thường các thẩm phán cao cấp trở lên phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội nếu vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy, cần nghiên cứu mở rộng thẩm quyền miễn nhiệm đối với Thẩm phán TAND cấp cao có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
2.3. Tư tưởng pháp lý - tư pháp độc lập
- Thứ ba, việc Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao quyền vô hiệu các văn bản của Tòa án nhân dân là không phù hợp với tư duy pháp quyền - độc lập tư pháp và kiểm soát tư pháp của cơ quan lập pháp.
Trong cơ chế tam quyền phân lập, Quốc hội và Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền độc lập trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật. Tòa án có độc quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân; thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân) và các văn bản thi hành pháp luật. Trong cơ chế phân chia quyền lực này, một trong những nguyên tắc cơ bản nhất là đảm bảo tính độc lập của tư pháp. Vì vậy, thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc giải quyết văn bản của Tòa án nhân dân là không đúng với ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Hơn nữa, việc thực hiện quyền thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp không nên giao cho các cơ quan chính trị như Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bởi theo quy định của pháp luật, thẩm quyền này phải thuộc về tòa án hoặc các cơ quan khác. các cơ quan tài phán độc lập. Văn bản của Tòa án không thể trở thành đối tượng thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà ngược lại, chính văn bản của Quốc hội là đối tượng thẩm quyền của Tòa án (như phần đầu tiên của bài viết được trình bày. ). Vì vậy, sự kiểm soát này của Quốc hội một mặt không phù hợp với bản chất của quyền tài phán, mặt khác cản trở việc thừa nhận độc quyền phán quyết tính hợp hiến của pháp luật của tòa án.
Nội dung bài viết:
Bình luận