Quan điểm của C. Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị?

1. Quan điểm của V.I.Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

 Trong các tác phẩm của mình, cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chưa đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về kinh tế và chính trị học, nhưng trên cơ sở tư tưởng của Người có thể hiểu kinh tế là tổng thể các hoạt động sản xuất của một cộng đồng người người dân, một quốc gia và một cộng đồng chịu tác động của quá trình sản xuất. , trao đổi, phân phối và tiêu dùng sản phẩm xã hội. Chính trị bao gồm hệ tư tưởng chính trị, thể chế chính trị cũng như quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã cụ thể hóa thêm quan niệm về chính trị với các luận điểm: “Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp; chính trị là thái độ của giai cấp vô sản đấu tranh để giải phóng mình chống lại giai cấp tư sản toàn thế giới”(1); hay “Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là sự lãnh đạo của nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước”(2). Như vậy, theo quan điểm của V.I.Lênin, chính trị là nội dung và phương hướng hoạt động của nhà nước; là sự phản ánh quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia, dân tộc. Bàn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, cũng như C. Mác và Ph.Ăngghen, V. I. Lênin đã khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị. Theo V. I. Lênin, cơ cấu kinh tế của xã hội tạo ra chính trị, chính trị do tổng thể các quan hệ sản xuất của xã hội tạo ra. Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định của mọi quan hệ xã hội khác. Quan điểm của ông về vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện trong luận điểm nổi tiếng sau: “Trong sản xuất vật chất, con người nằm trong những quan hệ nhất định với nhau, quan hệ sản xuất. Các quan hệ này luôn tương ứng với trình độ phát triển của năng suất mà các lực lượng kinh tế của các quan hệ này có được trong thời kỳ đó. Tất cả những quan hệ sản xuất đó hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, nghĩa là cơ sở hiện thực để xây dựng một kiến ​​trúc thượng tầng chính trị và pháp lý, và trên đó một lương tâm xã hội nhất định dựa vào. Như vậy, phương thức sản xuất quyết định các quá trình của đời sống xã hội, chính trị và tinh thần thuần túy. Với quan điểm này, Người tiếp tục khẳng định quan điểm duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác khi đề cập đến các vấn đề lịch sử - xã hội của loài người. Phân tích bản chất của nhà nước vô sản, V.I.Lê-nin chỉ rõ kinh tế quyết định chính trị vì tuy nắm chính quyền về nhà nước nhưng giai cấp vô sản vẫn phải căn cứ vào nhu cầu phát triển khách quan của thế giới, kinh tế để xác định phương hướng hoạt động của mình. các hoạt động. và lúc này kinh tế cũng quyết định tính chất, quy mô, mức độ và khả năng tác động của bộ máy chính trị đối với sự phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Sự quyết định và ảnh hưởng của kinh tế đối với chính trị trong thời đại ngày nay thường liên quan đến việc xác lập đường lối, chủ trương, cơ cấu và tổ chức bộ máy để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội và chính trị. Theo nghĩa này, “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”. Từ đó, V.I.Lênin đã đề ra nguyên tắc phương pháp luận khi xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là phải xem xét vấn đề chính trị trên cơ sở kinh tế nhất định, bởi vì “bất kỳ vấn đề chính trị nào cũng có thể là vấn đề tổ chức và ngược lại... Vấn đề tổ chức không thể tách rời khỏi chính trị. Chính trị là một bản tóm tắt của kinh tế học”(4). Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã bổ sung luận điểm quan trọng về sự ảnh hưởng, tác động của kinh tế đối với chính trị: Sự phát triển của kinh tế trong một xã hội nhất định cuối cùng sẽ dẫn đến sự ra đời của một chế độ chính trị - xã hội mới. trong xã hội cũ. Ông lập luận điều này trong điều kiện thực tế của cuộc cách mạng vô sản ở Nga. Ông nói, rõ ràng là cuộc cách mạng chính trị đã diễn ra trước những thay đổi về kinh tế. Giai cấp vô sản phải nắm chính quyền trước khi có thể tiến hành cải cách xã hội chủ nghĩa. 

mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

 

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ có thể ra đời sau khi giai cấp vô sản nắm vững chính quyền, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực hiện những cải biến cách mạng trong lĩnh vực kinh tế. Nhưng cũng rõ ràng là trước đó, trong lòng xã hội tư bản đã xuất hiện những cơ sở khách quan về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa cho cách mạng chính trị. Nó là kết quả của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các giai cấp đối kháng và trên hết là giữa kinh tế và chính trị. Ngược lại, V.I.Lênin chỉ ra rằng chỉ khi nào giai cấp vô sản nắm được tư liệu sản xuất, biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung của xã hội, trên cơ sở đó cải tạo nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội thì chính sách của họ mới an toàn. Như vậy, về bản chất, mặc dù cách mạng chính trị có trước sự chuyển biến kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng kinh tế bao giờ cũng quyết định chính trị chứ không phải ngược lại. Cũng như C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin luôn nhấn mạnh sự trở lại của chính trị đối với kinh tế. Người khẳng định: “Không có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nào đó không thể duy trì sự thống trị của mình, và do đó, không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình trên lĩnh vực chính trị của khu vực sản xuất”(5). Với luận điểm này, ông đã nhấn mạnh vai trò của chính trị trong kinh tế để chỉ đạo, định hướng các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Ông tiếp tục tranh luận thêm về điều này bằng cách xem xét và phân tích nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong cách mạng vô sản. Theo Người, khi giai cấp cách mạng (đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ) chưa giành được chính quyền nhà nước, thì vấn đề chính trị luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, để đấu tranh giải phóng kinh tế, giai cấp vô sản phải giành được một số quyền chính trị. Khi đó, nhiệm vụ kinh tế chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nhưng khi giai cấp vô sản đã giành được quyền tự do chính trị, tức là đã nắm được quyền lực nhà nước và sử dụng nó như một phương tiện để đạt được các mục tiêu kinh tế, thì chính trị chiếm địa vị phụ thuộc vào kinh tế. 

Củng cố mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin viết: “Vì lợi ích kinh tế có vai trò quyết định, nên không thể kết luận rằng đấu tranh kinh tế (= có tính chất công đoàn) là quan trọng hàng đầu, bởi vì nói chung, lợi ích "quyết định" chính của các giai cấp có thể được thỏa mãn. chỉ thông qua những chuyển đổi chính trị cơ bản; trong khi những lợi ích kinh tế sống còn của giai cấp vô sản, đặc biệt, chỉ có thể được thỏa mãn bằng một cuộc cách mạng chính trị thay thế chế độ chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản. Qua đây, có thể thấy rằng, không giành được chính quyền thì giai cấp vô sản không thể đạt được mục tiêu kinh tế của mình. Chỉ bằng cách nắm lấy quyền lực chính trị, họ mới có thể đạt được lợi ích kinh tế cốt lõi của mình. Điều đó có nghĩa là, chính trị có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Vì vậy, đôi khi người ta cho rằng bạo lực tạo ra kinh tế, tạo ra của cải và của cải, mặc dù khi xem xét kỹ hơn, đó chỉ là một biểu hiện của vai trò to lớn mà chính trị đóng trong thời đại cụ thể này. Ngoài ra, V.I.Lê-nin còn nhấn mạnh ưu tiên chính trị hơn kinh tế trong đấu tranh chống các biểu hiện “kinh tế hóa”. Ông viết: “Chính trị chỉ có thể được ưu tiên hơn kinh tế. Lập luận khác là quên những điều cơ bản của chủ nghĩa Mác”(7). Vị trí lãnh đạo ở đây trước hết phải hiểu rằng việc giành chính quyền nhà nước và củng cố, duy trì chính quyền này phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu để có thể giải quyết các vấn đề kinh tế. Không có đường lối chính trị đúng đắn, giai cấp vô sản không thể duy trì sự thống trị của mình và do đó, không thể hoàn thành nhiệm vụ kinh tế của mình. Nhưng khi giai cấp vô sản đã nắm được chính quyền thì những vấn đề về kinh tế, tổ chức và quản lý sản xuất, tổ chức lại nền kinh tế quốc dân trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Điều này đã được V.I.Lê-nin khẳng định khi nhấn mạnh nhiệm vụ của chính quyền Xô-viết sau Cách mạng Tháng Mười Nga: “Chính sách chủ yếu của chúng ta lúc này là xây dựng đất nước về kinh tế, nhằm tích lũy nhiều lúa mì, sản xuất nhiều than đá, sử dụng những loại lúa mì này". và than một cách hợp lý hơn để không còn người đói. Đây phải là chính sách của chúng ta... chúng ta sẽ chuyển sang chính sách trong lĩnh vực kinh tế”(8). 

Có thể nói, luận điểm “Chính trị không thể không đặt trong mối quan hệ với kinh tế trước hết” là một luận điểm hết sức cơ bản không chỉ trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị mà còn trong quan điểm biện chứng duy vật về xã hội của V.I.Lênin. bày tỏ rằng mỗi người mácxít, mỗi nhà hoạt động chính trị ngày nay phải ghi nhớ và nắm vững. Luận điểm này của V.I.Lênin là kết quả của sự nắm vững và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong điều kiện thực tiễn của cách mạng vô sản Nga do V.I.Lênin lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong thời kỳ đổi mới Từ buổi đầu đổi mới đất nước (1986) cho đến nay, trên cơ sở nhận thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, quan điểm của V.I.Lênin nói riêng về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. cuộc sống, bao gồm cải cách kinh tế và chính trị. Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trong nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến theo hướng ngày càng rõ ràng và hợp lý hơn. Với quan điểm đó, Đảng ta chủ trương “gắn chặt đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ngay từ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm mục tiêu, đồng thời với từng bước đổi mới chính trị”(9). Kế thừa tinh thần của các kỳ đại hội trước, tại Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tới là: “Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Khái niệm “đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

 Khái niệm “đổi mới chính trị” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam sau hơn 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Về đổi mới kinh tế, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực..., nước ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế..., tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt. Về đổi mới chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta từng khẳng định: “Những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị, từ đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh”(10). Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai quá trình này có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới đất nước nói chung, đổi mới kinh tế và chính trị ở nước ta nói riêng vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Bàn về vấn đề này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta nhận định: Nền kinh tế nước ta tăng trưởng tuy đã đạt được một số tiến bộ nhưng còn chậm, thiếu bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. “Nền kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, tri thức chưa nhiều, khoa học công nghệ, lao động có trình độ”(11). Hơn nữa, đổi mới chính trị chậm và hiệu quả: “Tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, v.v. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội của nhà nước gắn với giảm tiền lương và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu. Số lượng cán bộ, công chức không những không giảm mà còn tăng…”(12). 

Xuất phát từ thực tế đó, để thực hiện đổi mới kinh tế và chính trị có hiệu quả, cần nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận sau: Thứ nhất, quan điểm đúng đắn về vấn đề quy luật là mọi thay đổi chính trị đều phản ánh những thay đổi kinh tế, do kinh tế quyết định. Do đó phải bắt đầu từ đổi mới kinh tế rồi chuyển sang đổi mới chính trị; hay nói cách khác phải xuất phát từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng thời, cũng cần tích cực đổi mới chính sách, thực hiện vai trò dẫn dắt, định hướng của chính sách đối với nền kinh tế bằng các cơ chế, chính sách phù hợp. 

Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có biện pháp phù hợp và tiến hành từng bước. Thứ hai, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong các mối quan hệ khác của quá trình đổi mới. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã coi mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong chín mối quan hệ cơ bản của công cuộc đổi mới. Tuy các mối quan hệ này có nội dung và tính chất khác nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng. Vì vậy, cần điều hòa hài hòa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị với các mối quan hệ khác. Vì kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội nên việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là điều kiện để giải quyết các mối quan hệ khác. Thứ ba, giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị gắn với điều kiện lịch sử cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà trong hơn 30 năm đổi mới, các quan niệm về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị dần dần điều chỉnh trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tiễn vận động từng bước đòi hỏi Đảng ta phải có những điều chỉnh phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải được đặt trong bối cảnh mới - tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. . Từ đó, có những chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế, chính trị phù hợp.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo