Mối quan hệ giữa chủ tịch nước và quốc hội

1.Vị trí và tính chất của Chủ tịch nước

Điều 86 Hiến pháp  2013 quy định: “Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Như vậy, cũng như một số bản Hiến pháp trước đây, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò là Nguyên thủ quốc gia, Người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại, mà không phải là Người đứng đầu Chính phủ như trường hợp của Chủ tịch nước trong Hiến pháp  1946.  

 Chức vụ Chủ tịch nước ở nước ta được hình thành theo hình thức bầu cử gián tiếp. Cử tri cả nước sẽ bầu ra các Đại biểu Quốc hội, sau đó Chủ tịch nước sẽ do Quốc hội bầu  trong tổng số Đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo 87 Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong tổng số các đại biểu Quốc hội, phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, nhiệm kỳ của chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hộ hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho tới khi Quốc hội khoá mới bầu ra Chủ tịch nước tiếp theo. 

  2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.  

Theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện trưởngViện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá; Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và điểm 9, Điều 91 trong thời hạn mười ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua; nếu pháp lệnh, nghị quyết đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất; Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước; Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định; Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam; Quyết định đặc xá… 

 

 

 3. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội.  

Về  tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 2013  khẳng định: Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để mỗi cơ quan  phát huy hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và phối hợp với nhau tạo thành một hệ thống đồng bộ, chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước.  

 Theo quy định tại Điều 87 Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước do Quốc hội bầu  trong số đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo sự ủy nhiệm  của Quốc hội và  chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. 

  Ví dụ: Tại kỳ họp thứ 12 của Quốc hội (2007 - 2011), sau khi được bầu là Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã đọc tờ trình giới thiệu đồng chí Nguyễn Minh Triết làm Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được 61/64  đại biểu Quốc hội tán thành. Trước đây, chủ tịch nước ngồi trong Quốc hội và là chủ tịch tập thể của nó. Cho đến Hiến pháp  1992 và  2013, Chủ tịch nước có thể chế riêng nhưng luôn nghiêng về  Quốc hội  hơn là đứng về phía Chính phủ như  Hiến pháp 1946 và 1959. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu,  miễn nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước  do Quốc hội quyết định. Quốc hội cũng có quyền hủy bỏ  văn bản của Chủ tịch nước nếu văn bản đó trái với Hiến pháp, nghị định của Quốc hội (Điều 70 Hiến pháp 2013). Chủ tịch nước có quyền trình Quốc hội dự án luật, kiến ​​nghị luật phê chuẩn ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 84 Hiến pháp 2013). Chủ tịch nước có quyền  dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội (điều 60 luật tổ chức Quốc hội 2014 sửa đổi, bổ sung đến năm 2020); kiến nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại  pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.... Xét về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội,  có thể thấy mối quan hệ mật thiết, bao dung, gắn bó với Quốc hội.  

 

 4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ

Từ chỗ là một bộ phận của chính phủ (theo Hiến pháp  1946), tổng thống được tách ra thành một cơ quan độc lập, có vai trò  đại diện cho nhà nước về đối nội và đối ngoại. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ được quy định từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đến Hiến pháp năm 2013 và pháp luật hiện hành về tổ chức Chính phủ  như sau: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Khoản 2 Điều 88 Hiến pháp  2013). Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước có quyền quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. 

 Chính phủ mời Chủ tịch nước  dự phiên họp  Chính phủ và trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Thủ tướng khuyến khích và kiểm soát việc áp dụng các quyết định của Tổng thống. Các báo cáo của chính phủ trước khi trình tổng thống phải được thảo luận và biểu quyết theo đa số. 

 Xác định rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan này nhằm tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm  sự phối hợp chặt chẽ,  hiệu quả giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ. 

 2Q==

  5.  Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao

 Mối quan hệ giữa chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao là rất quan trọng. Kể từ Hiến pháp năm 1992 và  nay là Hiến pháp năm 2013, chế độ bầu cử Thẩm phán chuyển sang chế độ  bổ nhiệm,  trừ  chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đến các Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Tòa án quân sự trung ương đến các Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Hiện nay, theo Luật Tổ chức TAND 2014, việc bổ nhiệm một số chức danh như Chánh án TAND các cấp được giao  cho Chánh  án TAND tối cao  (Chánh án TAND tối cao có thẩm quyền bổ nhiệm một số chức danh không thuộc thẩm quyền  của Chủ tịch nước theo quy định tại Điều 27 Luật tổ chức TAND 2014). Chủ tịch nước chỉ  bổ nhiệm Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương. 

  Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo  Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình ý kiến ​​của Chủ tịch nước  về  trường hợp người bị kết án tử hình xin ân xá.




Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo