mô hình an sinh xã hội ở việt nam

1. Đưa nội dung  mô hình ASXH vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Cụ thể hơn: Khẳng định chủ trương hoàn thiện mô hình an sinh xã hội theo hướng đa tầng, đa dạng, linh hoạt, bao trùm, bình đẳng, bền vững và hiệu quả trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện mô hình an sinh hiện hành. 

 Tầng thứ nhất là an sinh xã hội cơ bản,  đảm bảo an sinh tối thiểu cho người dân, chủ yếu hướng tới các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương về an ninh gồm trẻ em, người già, người khuyết tật không có thu nhập, người nghèo, người nghèo và người thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. An sinh xã hội về cơ bản bao gồm 4 phần: 

 Thứ nhất, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân thông qua bảo hiểm y tế toàn dân.  Thứ hai, an sinh xã hội cho trẻ em, đảm bảo các quyền an sinh tối thiểu như được đảm bảo đủ ăn, đủ dinh dưỡng, quần áo mặc và được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, v.v. 

unnamed_2

 Thứ ba, an sinh xã hội cho người già, người tàn tật và những người không có khả năng lao động thông qua lương hưu xã hội hoặc trợ cấp xã hội. 

Thứ tư, an sinh xã hội cho người nghèo,  thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. 

  Ở cấp độ thứ hai, an sinh xã hội dựa trên sự đóng góp bắt buộc hoặc tự nguyện của người lao động. Trụ cột của trụ cột thứ hai là hệ thống bảo hiểm xã hội dựa trên đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. 

 Trụ cột thứ ba là ASXH tự nguyện của các cá nhân và hộ gia đình mong muốn được hưởng lợi từ ASXH bổ sung để được thụ hưởng chế độ ASXH cao hơn.  Việc xác định mô hình ASXH Việt Nam trong Văn kiện Đại hội Đảng sẽ là cơ sở để Đảng, Nhà nước làm rõ mô hình, điều chỉnh luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm hoàn thiện mô hình ASXH Việt Nam, đáp ứng  những yêu cầu, thách thức mới đối với việc bảo đảm ASXH ở nước ta. 

2. Thành lập quỹ hưu trí xã hội, hình thành và từng bước  mở rộng trợ cấp hưu trí xã hội cho người cao tuổi không có lương hưu, bảo hiểm xã hội hàng tháng trên cơ sở phù hợp với điều kiện phát triển, kinh tế - xã hội và khả năng tài chính 

 

 Nhà nước phải thành lập Quỹ Hưu trí xã hội do ngân sách Nhà nước cấp chủ yếu  và huy động các nguồn lực xã hội. Xây dựng lộ trình hạ dần độ tuổi hưởng và tăng mức hưởng trên cơ sở khả năng hỗ trợ của ngân sách nhà nước và khả năng huy động  các nguồn lực xã hội khác. 

  Việc thành lập Quỹ Hưu trí xã hội sẽ giúp quản lý việc huy động và chi trả lương hưu  xã hội, từng bước mở rộng diện bao phủ BHXH cơ bản cho người cao tuổi không có lương hưu, góp phần thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW khóa XII cũng như thực hiện  mô hình ASXH đa tầng, đa dạng và bền vững đến năm 2030. 

3. Điều chỉnh lại các chính sách, chương trình giảm nghèo theo hướng xây dựng các dự án phát triển sinh kế, hỗ trợ có điều kiện, loại bỏ  nội dung hỗ trợ miễn phí, tạo sự phụ thuộc của người nghèo, xây dựng các chương trình việc làm tạo công ăn việc làm cho người nghèo.  

 Theo đó, tách bạch nội dung giữa  chính sách hỗ trợ việc làm, giảm nghèo thông qua phát triển sinh kế, nâng cao thu nhập cho người lao động với  chính sách hỗ trợ  thường xuyên hoặc đột xuất, miễn phí; tách riêng người nghèo nhưng không thể thoát nghèo  cần  trợ cấp thường xuyên và người có khả năng lao động và có thể thoát nghèo nếu được tạo điều kiện về việc làm, phát triển sinh kế. 

 Các khuyến nghị nếu được thực hiện sẽ nâng cao hiệu quả của các chương trình, chính sách giảm nghèo, đưa người nghèo  thoát nghèo và giảm nghèo bền vững. 

4. Phát triển đa dạng mô hình bảo hiểm xã hội, thực hiện thí điểm để người lao động lựa chọn hình thức đóng và quyền lợi tham gia bảo hiểm xã hội. 

 Trong mô hình bảo hiểm xã hội ở nước ta hiện nay, người lao động đóng bảo hiểm xã hội và  hưởng các chế độ theo mức do nhà nước quy định (hình thức  xác định đối tượng). Ngoài hình thức này, chúng tôi kiến ​​nghị nhà nước nên thí điểm chương trình cho phép người lao động được  lựa chọn phương thức tham gia BHXH hai tầng. Phần BHXH do người sử dụng lao động đóng sẽ được nộp vào quỹ BHXH, người lao động được nhận lương hưu theo hình thức đối tượng xác định, giống như chế độ BHXH hiện hành. Phần do người lao động đóng góp được chuyển vào tài khoản bảo hiểm xã hội cá nhân, người lao động được hưởng dựa trên đóng góp của chính mình (hình thức đóng góp xác định). Mỗi nhân viên sẽ có tài khoản bảo hiểm xã hội riêng, biết  mình đã đóng góp bao nhiêu và khi nghỉ hưu sẽ được hưởng lợi từ số tiền đó (và lợi nhuận từ việc đầu tư số tiền đó nếu có). Khi người lao động qua đời, toàn bộ số tiền trong tài khoản (nếu có) được để lại cho thân nhân. Nếu người lao động nghỉ BHXH một lần thì  chỉ được hưởng phần do BHXH cá nhân đóng, không được hưởng phần do  người sử dụng lao động đóng. 

 Chế độ BHXH kép này đã được nhiều nước áp dụng, vừa tạo sự chủ động cho người lao động, vừa giảm rủi ro ngân sách nhà nước phải hỗ trợ quỹ BHXH. 

 Đa dạng hóa các hình thức đóng  và  hưởng BHXH sẽ góp phần khuyến khích người lao động tham gia BHXH, giảm hiện tượng trốn đóng, rút ​​BHXH một lần, góp phần mở rộng diện bao phủ BHXH và đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động. 

5. Tạo bước đột phá khuyến khích người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo nghĩa nhà nước tăng mức hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội và để người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội như bảo hiểm và bảo hiểm xã hội bắt buộc. . 

 Do đó, Nhà nước nâng mức  đóng BHXH của người lao động (ví dụ Nhà nước đóng 30%, người lao động đóng  70%). Người tham gia BHXH tự nguyện không chỉ được hưởng  hai chế độ hưu trí và tử tuất  hiện hành mà còn được hưởng  chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động. Do đó, BHXH tự nguyện sẽ hấp dẫn hơn vì người lao động  đóng ít hơn nhưng được  hưởng đầy đủ các quyền lợi. Đề xuất này nếu được triển khai sẽ tạo bước đột phá để khuyến khích nhiều hơn nữa NLĐ tham gia BHXH tự nguyện, từ đó mở rộng diện bao phủ BHXH, đảm bảo an sinh xã hội cho một bộ phận NLĐ đang làm việc ngoài mô hình ASXH hiện nay.  

6. Tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch để phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội,  tổ chức xã hội và cộng đồng trong bảo đảm  an sinh xã hội.  

 Các tổ chức chính trị - xã hội,  tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng có vai trò rất lớn trong bảo đảm  an sinh xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, vai trò của các tổ chức này chưa được thể chế hóa rõ ràng, tạo điều kiện để các tổ chức này phát huy tốt hơn vai trò của mình. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng có khả năng huy động nguồn lực xã hội to lớn cho an sinh xã hội, góp phần bổ sung nguồn lực cho xã hội, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. 

 Việc thực hiện các khuyến nghị sẽ góp phần phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng trong bảo đảm  an sinh xã hội,  góp phần cải thiện an sinh xã hội ở nước ta.  

7. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, dự báo an sinh xã hội, tích hợp với hệ thống dữ liệu quốc gia. 

  Để thiết kế và vận hành mô hình ASXH cần xây dựng hệ thống quản lý thông tin ASXH như  thông tin nhân khẩu học như dân số, độ tuổi, quy mô gia đình, trình độ học vấn, việc làm, v.v. việc làm, thu nhập, y tế, BHXH, tình trạng nghèo, đói,  tự túc trong ASXH và các chế độ ASXH đang và sẽ được coi trọng… Hiện nay, thông tin ASXH còn bị chia cắt, phân tán trong quản lý, còn thiếu chính xác, thiếu cập nhật và khó tiếp cận  ngay cả với các cơ quan quản lý, nghiên cứu khoa học, các tổ chức tham gia bảo đảm ASXH như  tổ chức chính trị - xã hội,  tổ chức xã hội, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân. Điều này gây khó khăn cho việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, đánh giá hiệu quả của các chính sách, chương trình ASXH, xác định đúng đối tượng thụ hưởng, dẫn đến trùng lặp, chồng chéo trong chính sách, hỗ trợ. - Cập nhật hệ thống thông tin  để thuận tiện cho việc quản lý và thực hiện  an sinh xã hội. 

  Nếu được triển khai, hệ thống thông tin ASXH sẽ giúp  cơ quan quản lý nhà nước nắm được nhu cầu, khả năng cung cấp ASXH để xây dựng chương trình, kế hoạch, chính sách cung cấp ASXH, liên kết và quản lý việc thực hiện các chương trình, kế hoạch, chính sách này đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, thông tin phúc lợi còn được sử dụng trong quản lý các lĩnh vực khác nhau, trong hoạch định và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong nghiên cứu khoa học, v.v. 

8. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực  đảm bảo an sinh xã hội 

 Trong bối cảnh là một nước có  thu nhập  thấp và trung bình, ngân sách còn nhiều khó khăn, Việt Nam luôn cố gắng đầu tư nhiều nguồn lực tài chính cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Tuy nhiên, nguồn lực khá phân tán, được phân bổ cho nhiều chính sách,  chương trình nên hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp. Trong quá trình phân bổ và tổ chức thực hiện  chính sách an sinh xã hội thiếu  giám sát, kiểm tra, để nguồn lực đầu tư kém hiệu quả, gây  lãng phí,  trục lợi, tham nhũng trong sử dụng  tài chính công. 

 Nếu được thực hiện, các khuyến nghị sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực để đảm bảo an sinh xã hội. 

9. Tăng cường xã hội hóa để bảo đảm  an sinh xã hội 

 Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong bảo đảm  an sinh xã hội, nhưng cần có cơ chế  thu hút các nguồn lực xã hội để đảm bảo an sinh xã hội. 

  Nếu được thực hiện, đề án sẽ góp phần đa dạng hóa, bổ sung nguồn lực, giảm sự phụ thuộc của Nhà nước vào việc bảo đảm  an sinh xã hội và góp phần nâng cao an sinh xã hội của người dân.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo