1.Quy định miễn chấp hành hình phạt theo luật hình sự trước đây
Căn cứ của việc miễn chấp hành hình phạt là tính không hợp lí, không cần thiết hoặc không có khả năng chấp hành hình phạt do người bị kết án đã hết nguy hiểm cho xã hội hoặc do tính chất nguy hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội, do trạng thái sức khoẻ của người phạm tội hoặc có tình tiết khác. Có hai loại miễn chấp hành hình phạt: miễn chấp hành toàn bộ hình phạt và miễn chấp hành hình phạt còn lại. Điều 57 khoản 5 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
“Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của chính quyền địa phương nơi người đó chấp hành hình phạt, Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại”.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 được ghi nhận tại các Điều 19, 25, 69, 80, 289, 290, 314, theo đó quy định về miễn trách nhiệm hình sự bao gồm hai loại quy định có tính chất bắt buộc và quy định có tính chất tùy nghi. Với những quy định có tính chất bắt buộc khi gặp những trường hợp phù hợp với nội dung điều luật quy định, cơ quan có thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, với những quy định có tính tùy nghi thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng trường hợp cụ thể đánh giá tính chất, mức độ của sự việc để quyết định miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
2. Miễn Hình phạt là gì?
Việc miễn hình phạt không bắt buộc người bị kết án phải chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt đã tuyên.
Người được miễn chấp hành hình phạt luôn phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ dân sự mà tòa án đã tuyên trong bản án.
Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 nhằm mở rộng phạm vi miễn trách nhiệm hình sự quy định như sau:
Tiết 29. Căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự
- Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu có một trong các căn cứ sau đây:
- a) Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi về chính sách, pháp luật nên hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội;
- b) Khi có quyết định đại xá.
Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu có một trong các căn cứ sau đây:
- a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do thay đổi tình tiết nên người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội;
- b) Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh nan y làm mất khả năng gây nguy hiểm cho xã hội;
- c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện, người phạm tội đã khai nhận, khai rõ sự việc, góp phần đắc lực vào việc phát hiện, điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, phạm tội đã lập công lớn hoặc có công lao đặc biệt; được nhà nước và xã hội thừa nhận.
- Người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc có biện pháp khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ tự nguyện hòa giải. và yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự thì anh ta có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định đầy đủ về các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, nhưng quá trình đưa vào thi hành vẫn còn những quan điểm, cách hiểu khác nhau. Trong bài viết này, tác giả nghiên cứu nội dung và điều kiện áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Việc quy định miễn chấp hành hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo đối với người bị kết án có hoàn cảnh đặc biệt và khuyến khích người bị kết án cố gắng lập công chuộc tội để được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước.
3. Phân tích quy định của pháp luật hình sự hiện hành về miễn hình phạt
Chế định về miễn chấp hành án tại Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định cụ thể về điều kiện “được miễn” hoặc “có thể” được miễn chấp hành án; miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc miễn chấp hành phần còn lại của hình phạt đã tuyên. 3.1. Miễn chấp hành án trong trường hợp đại xá hoặc đại xá
(Khoản 1 mục 62 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017)

4 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù
Đại xá là biện pháp khoan hồng của Nhà nước mà nội dung là miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần còn lại của hình phạt tù đối với người bị tạm giữ hoặc người bị tạm giam đã đáp ứng một số điều kiện nhất định.
Quyền đặc xá được đặt dưới quyền của Chủ tịch nước và sắc lệnh này thường được ban hành vào dịp các ngày lễ lớn hàng năm (Xem: Điều 88 Hiến pháp).
Đại xá chung là một biện pháp khoan hồng của nhà nước nhằm tha tội, thường là toàn bộ và toàn bộ, trong phạm vi rộng cho những người phạm một tội nào đó.
Kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Nhà nước ta chỉ quyết định đại xá hai lần vào các năm 1945 (theo sắc lệnh ngày 19-8-1945) và năm 1954 (theo thông tư số 413-TTCP). TTg ngày 19/11/1954 về việc đại xá nhân dịp giải phóng thủ đô). Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp, việc quyết định đại xá thuộc thẩm quyền của Quốc hội (xem: Điều 70 Hiến pháp).
Tuỳ ở giai đoạn nào của quá trình thi hành án mà người bị kết án được đặc xá hoặc đại xá được miễn chấp hành toàn bộ hay phần hình phạt còn lại.
3.2. Miễn chấp hành toàn bộ hình phạt với người bị phạt cải tạo không giam giữ và người bị phạt tù có thời hạn
(khoản 2, 3 Điều 62 BLHS)
Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 BLHS, trường hợp người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát, toà án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Sau khi bị kết án đã lập công;
b) Mắc bệnh hiểm nghèo;
c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 62 BLHS, trường họp người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đỏ không còn nguy hiểm cho xã hội thì theo đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát, toà án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Lập công lớn là trường hợp người chấp hành án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc cứu được tài sản (có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên) của Nhà nước, tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, tai nạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng hoặc xác nhận. Đặc điểm này chứng tỏ người bị kết án đã trở nên có ích cho xã hội nên dù không buộc họ phải chấp hành hình phạt thì cũng không có nguy cơ tái phạm.
Người mắc bệnh hiểm nghèo là đang bị một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng, khó có phương thức chữa trị như: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội không có khậ năng chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao (Xem: Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012).
Người bị kết án không còn nguy hiểm cho xã hội được hiểu là người bị kết án đã hoàn lương, chấp hành đúng quy định pháp luật, chăm chỉ lao động, tích cực tham gia các hoạt động xã hội cũng như các phong trào địa phương, tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quyết định của toà án (Xem: Thông tư liên tịch số 09/2012HTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012; Thông tư liên tịch số 09/2012HTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012. Tên của Điều 63 BLHS (Giảm mức hình phạt đã tuyên) không thống nhất với tên của Điều 64 BLHS cũng nhu với nội dung trong chính Điều 63).
Thẩm quyền xét và quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt thuộc về toà án khi có đề nghị của viện trưởng viện kiểm sát.
3.3. Miễn chấp hành phần hình phạt còn lại trong trường hợp đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
(khoản 4 Điều 62 BLHS)
Toà án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại trong trường hợp thoả mãn các điều kiện sau:
- Người bị kết án phạt tù đến 03 năm;
- Được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
- Trong thời gian được tạm đình chỉ đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội. Đây là trường hợp người bị kết án đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, lập được nhiều thành tích trong học tập, công tác và chiến đấu được cơ quan nhà nước hữu quan khen thưởng hoặc chứng nhận. Điều kiện này thể hiện tính tự giác, quyết tâm chấp hành án của bị cáo nên cần được coi là một trong những căn cứ để miễn chấp hành án cho bị cáo.
Thẩm quyền xem xét và quyết định việc miễn chấp hành án trong những trường hợp này thuộc về Tòa án theo đề nghị của Kiểm sát viên.
3.4. Miễn chấp hành phần hình phạt còn lại (khoản 5 Điều 62 BLHS)
Người bị kết án phạt tiền còn có thể được Toà án miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại khi thuộc một trong hai trường hợp:
- Đã tích cực chấp hành được một phần thời hạn của bản án và không thể tiếp tục chấp hành được phần thời hạn còn lại do hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn trong thời gian dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, ốm đau;
- Tích cực chấp hành một phần hình phạt và lập công lớn.
Cả hai trường hợp nêu trên đều phải đề nghị Kiểm sát viên miễn phần tiền phạt còn lại. 3.5. Miễn chấp hành thêm hình phạt cấm cư trú, quản chế (Điều 6, Điều 62 Bộ luật hình sự)
Người bị cấm cư trú, quản chế nếu có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được Toà án ra quyết định miễn chấp hành thời hạn còn lại của hình phạt:
- Đã chấp hành được một nửa bản án;
- Được cải tạo tốt và
- Có yêu cầu của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó đang chấp hành án.
Nội dung bài viết:
Bình luận