
1. Lý luận dạy học là gì?
Lý luận dạy học là một bộ phận của khoa học giáo dục. Nó được hình thành và phát triển qua một quá trình lịch sử lâu dài và đến nay đã trở thành một ngành khoa học độc lập trong hệ thống khoa học giáo dục. Lý luận dạy học là: Khoa học về hoạt động dạy và học Các quy luật, mối quan hệ biện chứng và nguyên tắc cho mọi hoạt động dạy và học trong kỹ thuật và nghề nghiệp Nhiều nhà nghiên cứu lý luận giáo dục thuộc các trường phái khác nhau trên thế giới đã đưa ra những mô hình lý luận giáo dục khác nhau phù hợp với quan điểm chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và của nhà trường. Nhưng tất cả đều nhằm mục đích nghiên cứu hình thành lý luận về hoạt động dạy và học. Mỗi mô hình lí luận dạy học đều có bản chất riêng biệt của nó. Đến cuối thế kỷ XVIII, trên thế giới xuất hiện ba luồng tư tưởng chính về dạy học lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa khoa học phân tích kiểm chứng. Lý luận giáo dục theo chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ tư tưởng của C.Mác (1818 -1883). Các nhà lý luận giáo dục nổi tiếng theo tư tưởng này là: Lothar Klingberg, Hacker (Đức), Leontjew, Wygotski, Galperin (Liên Xô cũ),... Lý thuyết giáo dục theo chủ nghĩa duy tâm được hình thành từ tư tưởng của Ernst Schleiermacher (1768-1834). Các nhà lý thuyết đại diện cho trường phái này đầu tiên là Wilhelm Dilthey người Đức (1833-1911), sau đó là Max Frischeisen Koehler (1878-1923), Herman Nohl (1879-1963), John Dewey (1859-1952),… Lý luận dạy học theo khoa học phân tích và kiểm chứng được hình thành từ tư tưởng của Auguste Comte (1789 - 1857) người Pháp. Các nhà lý thuyết tiêu biểu cho trường phái này là Skinner, Bloom, v.v.
2. Mô hình giảng dạy lý luận là gì?
Mô hình lý luận dạy học là lý thuyết phân tích và mô hình hóa hoạt động dạy học thường xuyên trong các mối quan hệ đa dạng của hoạt động dạy học trong và ngoài nhà trường. Nó xác định các điều kiện, khả năng và giới hạn của việc dạy và học. Nó đại diện cho một trường phái lập luận (cũng là sự kết hợp của một số trường phái lập luận). Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980, đã có những cuộc khủng hoảng liên quan đến mô hình lý thuyết cơ bản về giảng dạy cho mỗi trường học. Khoảng đầu thập niên 90, những mô hình lý luận dạy học có sự học hỏi lẫn nhau và vận dụng của nhau những kết quả nghiên cứu và khó phân biệt được nếu chúng ta chiếu theo 3 dòng tư tưởng về lý luận dạy học Hiện nay trên thế giới (đặc biệt ở châu Âu và Mỹ) có những mô hình lý luận dạy học chính sau: Mô hình lí luận dạy học biện chứng (dialec) Mô hình lý luận dạy học lý thuyết thông tin (Informativ) Mô hình lý luận quan điểm điều khiển (Kybernetiv) Mô hình lý luận dạy học lý thuyết học tập (Learn Theorie) Mô hình lý luận dạy học thực dụng (Pragmatismus) Mô hình lấy giáo viên, học sinh làm trung tâm – … Tính chất cơ bản nhất để phân biệt sự khác nhau giữa các mô hình lý luận dạy học là mối quan hệ về cấu trúc cơ bản giữa: học sinh – giáo viên – nội dung dạy học.
3. Đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học
Đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học là quá trình dạy học, cụ thể là nghiên cứu các đối tượng liên quan đến quá trình dạy học như: bản chất, qui luật; mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện đánh giá trong hoạt động dạy và học… Phạm vi đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học Phạm vi đối tượng nghiên cứu của lý luận dạy học
4. Nhiệm vụ của lý luận giáo dục
Nghiên cứu quá trình dạy học với tư cách là một quá trình sư phạm, nhắm tìm ra các bản chất và qui luật của quá trình này. Do sự phát triển của xã hội cũng như do nhu cầu dạy và học trong những điều kiện và đặc thù nội dung khoa học khác nhau, lý luận dạy học đã có sự chuyên biệt hóa thành các khoa học hẹp. Nhưng tổng thể lý luận dạy học cóa hai bộ phận tri thức chủ yếu là Lý luận dạy học đại cương và lý luận dạy học chuyên biệt: Lý luận dạy học phổ thông Lý luận dạy học kỹ thuật tổng hợp Lý luận dạy học đại học Lý luận dạy học bộ môn, Lý luận dạy học chuyên ngành Lý luận dạy học chuyên nghiệp Nhiệm vụ của lý luận dạy học đại cương là nghiên cứu phát hiện ra những qui luật, bản chất chung cho tất cả các quá trình dạy học, đồng thời tìm ra những điều kiện để thực hiện qui luật này trong thực tiễn dạy học. Tuy nhiên, những nội dung mà lý luận dạy học đại cương nghiên cứu chưa thâu tóm được mọi vấn đề, khía cạnh đặc thù cụ thể của từng bậc học, môn học… Với sự hợp tác, thống nhất giữa cái chung và cái riêng, dựa lên nhau và bổ sung cho nhau, lý luận dạy học đại cương và lý luận dạy học chuyên biệt giúp giải quyết các vấn đề cơ bản của lý luận dạy học. Nội dung nghiên cứu LLDH trong giáo dục nghề nghiệp bao gồm: Mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học: mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo và mục tiêu giáo dục của từng chủ đề… (mục tiêu học tập); Nội dung giáo dục; Quy luật giáo dục: quy tắc tiếp thu kiến thức, tâm lý học, nguyên tắc sư phạm, quan hệ giữa thầy và trò, v.v. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; Tổ chức sư phạm: kế hoạch sư phạm, các giai đoạn của quá trình sư phạm Giảng dạy lý thuyết và thực hành.
5. Tính hai mặt của LLDH
Lý luận dạy học bao giờ cũng có hai mặt. Hai sợi dây là hai nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản luôn song hành với nhau. Hai nhiệm vụ này là: Nghiên cứu xác định thực trạng dạy học (thực trạng dạy học công nghệ nghiệp vụ đang diễn ra như thế nào?) Nghiên cứu định hướng giảng dạy (việc giảng dạy nên như thế nào?) Xác định tình huống là nghiên cứu tình huống mà các nhà sư phạm thường sử dụng các phương pháp như quan sát, phân tích, kiểm chứng, v.v. Leo Roth (1971) đã nghiên cứu so sánh giữa 3 lớp học bằng 3 hình thức tổ chức sư phạm khác nhau: dạy học cả lớp, dạy học theo nhóm và dạy học theo chương trình. Tiếp theo, đánh giá kết quả học tập của từng lớp để xác định hình thức tổ chức dạy học nào là tốt nhất. Với ví dụ này, chúng ta có thể thấy rõ khó khăn mà nhà nghiên cứu gặp phải. Để nghiên cứu được chính xác thì phải xác định đối chiếu kiến thức của học sinh lớp 3, phải kiểm tra xem thái độ của giáo viên có ảnh hưởng đến kết quả học tập hay không, v.v. Như vậy, hoạt động giáo dục là hoạt động có tính toàn cầu, trong đó có nhiều yếu tố tác động. Vì vậy, việc tìm kiếm chỉ hiểu được một phần mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố hay tính chất của một mặt hàng chứ không thể đưa ra được hết các mối quan hệ biện chứng của nó, tức là kết quả tìm kiếm chỉ giới hạn trong một bãi nhỏ nào đó. Kết quả này là cơ sở tri thức của TTDH và tác động ngược trở lại quá trình dạy học. Nghiên cứu định hướng dạy học là một phần nhiệm vụ quan trọng của lý luận dạy học. Việc định hướng được thể hiện bằng việc đưa ra các chương trình định hướng hoạt động dạy học, các mô hình dạy học, các chương trình dạy học, phương pháp đào tạo, phương pháp dạy học, … Một số quan điểm của lý luận dạy học Komensky (1592 – 1670) Ông là nhà sư phạm lỗi lạc của Tiệp Khắc vào thế kỉ 16 đã đặt nền móng cho lý luận dạy học với hai tác phẩm: Great Didactic: Lý luận dạy học vĩ đại Orbis Pictus: Dạy học bằng tranh ảnh Những tác phẩm này được xuất bản tại Nurmberg năm 1657. Sau đây là một số quan điểm của ông về dạy học: Ông cho rằng học chữ phải gắn liền với sự vật cụ thể, học không phải chỉ dựa vào sách vở mà phải dựa vào thiên nhiên; Nguyên tắc thích ứng tự nhiên và đảm bảo tính trực quan; Quá trình dạy học phải qua các giai đoạn: cảm giác, trí nhớ, tư duy và năng lực phê phán sáng tạo; Quá trình dạy học phải phù hợp với người học và sự hiểu biết là do các giác quan đem lại; Ngoài ra ông còn đóng góp rất quan trọng trong việc phát triển giáo dục nghề nghiệp trong một số ý tưởng phương pháp dạy học nghề nghiệp (Method of arts) Komensky được đánh giá là nhà sư phạm lỗi lạc và là người sáng lập khoa sư phạm mới. Tư tưởng sư phạm của ông vẫn còn tác dụng cho đến ngày nay. Jean Jacques Rousseau (1712 – 1778) Ông là một trong những nhà sư phạm và là nhà xã hội đã gây ra hai cuộc cách mạng là: cách mạng xã hội và cách mạng giáo dục ở Pháp. Anh nói rằng: Dạy học là sự phát triển của các giác quan; Cuộc sống thực mang lại trải nghiệm tốt nhất; Các hoạt động dạy học nên dựa trên hoạt động; Ông khuyến khích học tập; Johann Heinrich Pestalozzi (1746 - 1827) Ông là người Thụy Sĩ, quan điểm của ông: dạy học là nghệ thuật khơi dậy khát vọng của con người và phương pháp của ông có thể tóm tắt như sau: Thích ứng giảng dạy với các vấn đề tâm lý; Nền tảng của sự hiểu biết là trực giác và ngôn ngữ: dạy toán phải cụ thể, dạy hình thức phải thông qua quan sát, dạy ngôn ngữ phải dựa vào các giác quan, học đọc phải dựa vào ngôn ngữ; Giáo dục kỹ thuật là cần thiết và mang lại giá trị thực tiễn; Giáo dục là khoa học và nghệ thuật hình thành trí tuệ và cải tạo xã hội;
Nội dung bài viết:
Bình luận