Luật xúc tiến thương mại

Hoàn thiện pháp luật hiện hành về xúc tiến thương mại của Việt Nam  

 

 (LSVN) - Xúc tiến thương mại có vai trò hết sức quan trọng  giúp doanh nghiệp mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, thu hút ngày càng nhiều khách hàng,  tăng khả năng cạnh tranh, giúp nâng cao sản xuất, hiệu quả  kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặc dù các thể chế pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này  khá toàn diện nhưng vẫn còn một số rào cản ngăn cản việc giải phóng năng lực sản xuất, đặc biệt là từ khu vực  tư nhân. Vẽ. Xúc tiến thương mại  ở Việt Nam ngày càng được khẳng định là một công cụ không thể thiếu để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh nước ta đang thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang tích cực hội nhập quốc tế. chợ. nền kinh tế ngày nay (1). Xúc tiến kinh doanh là hoạt động nhằm xúc tiến, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm các hoạt động cụ thể như khuyến mại, quảng cáo thương mại, giới thiệu, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc hội chợ, triển lãm thương mại (2) không chỉ giúp các quốc gia đưa tận dụng cơ hội và hạn chế  thách thức, khó khăn của hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là công cụ hữu hiệu giúp các nước phát triển thị trường nội khối, kích thích hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Vì vậy, có thể nói  XTTM được coi là cầu nối hợp tác và phát triển kinh doanh giữa các công ty Việt Nam với thế giới, giúp các công ty Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh, tìm kiếm đối tác đầu tư, quảng bá sản phẩm, thương hiệu để chinh phục người tiêu dùng  trong và ngoài nước. . Sự ra đời của Luật Thương mại năm 1999 đã tạo cơ sở quan trọng để tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường và tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho các công ty Việt Nam. Cùng với sự hoàn thiện của hệ thống luật pháp, chính sách trong các thời kỳ, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành có tác động trực tiếp đến hoạt động xúc tiến thương mại. Cụ thể hơn, xúc tiến thương mại cũng đã được đề cập khá cụ thể trong Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2006 của Chính phủ  quy định chi tiết Luật Thương mại về Xúc tiến Thương mại (Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ). CP), nhờ đó, hoạt động xúc tiến thương mại đã có hành lang pháp lý khá đầy đủ và phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho  doanh nghiệp triển khai hoạt động xúc tiến thương mại trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số vướng mắc  cả ở cấp độ thể chế và thực thi pháp luật, cho đến nay khung pháp lý về xúc tiến thương mại vẫn còn một số bất cập cần tiếp tục hoàn thiện để thực sự phát huy hiệu quả. và các hoạt động thương mại. Một số khó khăn, bất cập trong thi hành pháp luật về XTTM 

 Đối với Việt Nam, hoạt động XTTM tuy là hoạt động còn mới mẻ nhưng nó cũng đã được Nhà nước quan tâm thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ này. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về XTTM bộc lộ khá nhiều vướng mắc, bất cập, nổi bật là những quy định trùng lặp, chồng chéo về quảng cáo và quảng cáo thương mại; những quy định hạn chế tự do thương mại và thiếu cụ thể về khuyến mại, rườm rà về thủ tục cấp phép, dẫn đến khó áp dụng và tính khả thi chưa cao. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng chưa đủ quy định cần thiết để kiểm soát các hoạt động thương mại diễn ra tập trung như hội chợ, triển lãm thương mại, kiểm soát tính trung thực của thương nhân hoạt động khuyến mại. Đồng thời chưa có sự thống nhất với các quy định về cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động XTTM. Dưới đây là một vài bất cập, khó khăn của việc thi hành pháp luật XTTM: 

 Thứ nhất, về trình tự thủ tục thực hiện khuyến mại, bao gồm: Đăng ký, thông báo và xin phép được quy định tại Nghị định số 37/2006/NĐ-CP nhưng pháp luật hiện hành chưa quy định các điều kiện cần đáp ứng để thương nhân được sự xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và quyền của thương nhân khi bị từ chối xác nhận việc đăng ký thực hiện chương trình khuyến mại. Điều này dễ dẫn đến tình trạng tùy tiện, thiếu cơ sở của cơ quan công quyền trong việc thực thi quyền hạn của mình và dễ gây khó khăn cho thương nhân thực hiện đầy đủ quyền tự do hoạt động khuyến mại của mình. Có lẽ đây là một trong nhiều lý do khiến nhiều chương trình khuyến mãi được thực hiện mà không cần đăng ký.  Thứ hai, mặc dù đã được công bố nhưng một số quy định về khuyến mại đã gây phản ứng đối với thương nhân. Cụ thể, Khoản 4, Mục 96 Luật Thương mại 2005 quy định: Đối với một số hình thức khuyến mại quy định tại Khoản 6, Mục 92(3) của Luật đó, thương nhân phải khấu trừ 50% giá trị của giá hàng đã quảng cáo cho Nhà nước. ngân sách  trong trường hợp không có người chiến thắng. Việc quy định như vậy  không đảm bảo  quyền lợi của thương nhân thực hiện khuyến mại. Mục đích của các quy định này là để hạn chế quảng cáo gian lận và không trung thực của thương nhân, nhưng nó có nhược điểm là không phù hợp với lợi ích kinh doanh của thương nhân.  Thứ ba, về nghĩa vụ quảng cáo trung thực, theo quy định của pháp luật Việt Nam, quảng cáo không trung thực bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Luật Quản lý Quảng cáo Thương mại  Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê rải rác một số luật và quy định  về vấn đề này. Điều này dẫn đến sự không đầy đủ và có thể không lường trước được hết các tình huống quảng cáo không trung thực có thể  xảy ra.  Thứ tư, về quảng cáo so sánh, quảng cáo so sánh trực tiếp là hành vi bị cấm theo quy định của Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại và Luật Quảng cáo. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có định nghĩa chính xác về quảng cáo so sánh. Đồng thời, đối tượng bị cấm so sánh chưa  thống nhất giữa pháp luật thương mại (hoạt động thương mại trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ) và pháp luật cạnh tranh (hàng hóa, dịch vụ). Vì vậy, trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện Luật Quảng cáo thương mại, đây cũng là  vấn đề  cần  lưu ý.  Ngoài ra,  ba  luật nêu trên  chỉ cấm quảng cáo so sánh trực tiếp. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều quảng cáo vẫn thực hiện so sánh nhưng  gián tiếp bằng cách sử dụng chung chung sản phẩm được so sánh  hoặc làm mờ đi khiến người xem không thể nhận biết rõ  sản phẩm được so sánh với sản phẩm nào. Trường hợp quảng cáo này tuy không bị cấm nhưng trên thực tế, người xem quảng cáo vẫn có thể biết sản phẩm được so sánh là sản phẩm của công ty nào (nhờ hình thức của sản phẩm), nhưng công ty có sản phẩm được so sánh thì không có. cơ sở pháp lý để khiếu nại về công ty có sản phẩm được quảng cáo.  Thứ năm, trên thực tế, hầu hết các gian hàng tại hội chợ đều  khuyến mại với mức chiết khấu rất cao (thường từ 50-70%). Nếu căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành thì việc giảm giá như vậy là vi phạm quy định về mức giảm giá tối đa (không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại). Tuy nhiên, pháp luật phải linh hoạt hơn trong trường hợp này, vì đợt giảm giá này chỉ  trong khuôn khổ hội chợ  tổ chức trong  vài ngày (còn hàng phi hội chợ này vẫn được bán với  giá bình thường) nên sẽ không  ảnh hưởng gì. sự cạnh tranh của hàng hóa từ các công ty khác. Trong khi đó, ở một số nước như Malaysia, Singapore, Thái Lan… họ thường tổ chức các hội chợ thường niên (thậm chí tổ chức  Tháng mua sắm, Mùa mua sắm, Tuần lễ khuyến mại…) hiệu ứng rất mạnh mẽ cho sự thu hút thương mại của người dân. Thứ sáu, các hội chợ chưa thực sự thu hút  khách hàng đến tham quan  mua sắm. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân:  lo ngại về chất lượng của các mặt hàng bán; nhầm lẫn xuất xứ; sự đơn điệu của các bài viết; nhu cầu thực tế của khách hàng; xu hướng mua hàng ngoại. Rõ ràng, để triển lãm ở Việt Nam thực sự phát triển và phát huy hiệu quả  còn  rất nhiều việc phải làm, trong đó chủ yếu là chấn chỉnh (quản lý, giám sát, xử lý vi phạm…). Thứ bảy, sự thiếu đồng bộ trong công tác xúc tiến thương mại. Hiện nay, hầu hết các địa phương trong cả nước đều có  trung tâm xúc tiến thương mại, hoạt động song song với các tổ chức xúc tiến thương mại quốc gia nhưng chưa có sự phối hợp giữa các trung tâm này. Hầu như  trung tâm nào cũng chạy chương trình xúc tiến marketing của riêng mình mà không có kế hoạch phối hợp,  kết nối với các trung tâm khác trên toàn quốc để thực hiện một chương trình xúc tiến marketing đồng bộ, đa dạng và  quy mô lớn. Việc phối hợp tất cả các tổ chức XTM thành một kế hoạch thống nhất tuy không dễ nhưng không phải là bài toán bất khả thi, thực tế nó phụ thuộc vào tầm nhìn của cả cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức XTM. Thứ tám, sự phối hợp giữa các trung tâm xúc tiến thương mại với hiệp hội ngành nghề chưa chặt chẽ, xảy ra tình trạng hiệp hội ngành hàng ngày càng nhiều nhưng  chưa có mối quan hệ hợp tác với trung tâm xúc tiến thương mại. Điều này dẫn đến công tác xúc tiến thương mại giữa các tỉnh, hiệp hội và doanh nghiệp chưa  kết nối với nhau, còn manh mún, rời rạc. Trong khi đó, chính các hiệp hội lại được hưởng lợi từ hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại. Những hạn chế này khiến kinh phí nhà nước đầu tư cho các trung tâm xúc tiến thương mại ở địa phương còn chưa  hiệu quả. Ngoài ra, sự thiếu phối hợp giữa hiệp hội ngành nghề với các trung tâm xúc tiến thương mại cũng gây khó khăn cho việc khảo sát, nghiên cứu thị trường của các trung tâm xúc tiến thương mại, làm giảm hiệu quả của các chương trình xúc tiến thương mại đã xây dựng.  Thứ chín, về  nội dung liên quan đến nguyên tắc  khuyến mại. Các quy định của Nghị định 37/2006/NĐ-CP mang tính chất chung chung nên khó  giải thích thống nhất và áp dụng thống nhất trong  thực hiện. Đặc biệt: 

 - Tại Điều 4, khoản 1: Nội dung “trung thực”, “minh bạch”, “không được làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng” đều là những nội dung được xác định một cách chủ quan trên thực tế. Trên thực tế, không có  tiêu chuẩn hoặc thước đo nào cho các tiêu chí này. Điều đó thực tiễn đã dẫn đến cách hiểu, áp dụng rất không thống nhất của các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các doanh nghiệp. Thực tế đã cho thấy có rất nhiều trường hợp khuyến mại mà trong đó các nội dung thể lệ chương trình khuyến mại gây tranh cãi do cách hiểu và suy luận khác nhau giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp, giữa chính các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến những nội dung này. Ví dụ, các trường hợp chương trình khuyến mại trong đó có đưa ra nội dung quy định hạn chế quyền lợi của người tham gia và/hoặc hạn chế quyền lợi của người trúng thưởng (xâm hại đến lợi ích của người tiêu dùng), các chương trình trong đó có những nội dung có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy vào mỗi khách hàng (minh bạch), các chương trình khuyến mại có một số nội dung chưa chính xác với thực tế (trung thực)… 

 - Tại Điều 4, khoản 2: Nội dung “không phân biệt đối xử giữa các khách hàng” trên thực tiễn nhiều năm qua cũng đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong cách hiểu. Ví dụ, các chương trình khuyến mại trong đó có sự phân biệt về quyền lợi của các khách hàng căn cứ theo vùng miền/địa bàn (phân biệt cơ cấu giải thưởng theo địa bàn), phân biệt về cơ cấu giải thưởng theo thời gian diễn ra chương trình khuyến mại… 

 - Tại Điều 4, khoản 3: Nội dung “phải bảo đảm những điều kiện thuận lợi cho khách hàng trúng thưởng nhận giải thưởng” cũng mang tính chung chung, rất khó khăn trong việc đưa ra một cách giải thích thống nhất trong các chương trình khuyến mại mà theo đó việc nhận thưởng của khách hàng phải dựa trên cơ sở thực hiện một số các yêu cầu, điều kiện do thương nhân thực hiện khuyến mại quy định.  - Tại Điều 4, khoản 4: Việc quy định “Thương nhân thực hiện khuyến mại có trách nhiệm bảo đảm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại” là không phù hợp với thực tiễn các trường hợp hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại không phải là hàng hóa do thương nhân đó trực tiếp sản xuất, kinh doanh (giải thưởng/quà tặng là hàng được tài trợ, mua, nhập khẩu…). Trong các trường hợp này, thương nhân thực hiện khuyến mại không thể bảo đảm về chất lượng mà chỉ có thể chịu trách nhiệm đền bù, bồi thường cho khách hàng khi mà hàng hóa dùng để khuyến mại không bảo đảm chất lượng.  - Tại khoản 1, khoản 2 Điều 12: Nghị định quy định về việc thương nhân phải thông báo với cơ quan quản lý nhà nước trong một số trường hợp (tổ chức xác định trúng thưởng, đưa bằng chứng xác định trúng thưởng vào hàng hóa khuyến mại) nhưng lại không quy định cụ thể, rõ ràng về thời gian, cách thức thông báo cũng như không quy định rõ về trách nhiệm tổ chức kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước trong các trường hợp này. Quy định như vậy thực tế gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhằm bảo đảm thực hiện theo đúng quy định.  - Tại Điều 13: Nội dung quy định chưa thực sự rõ ràng nên trong thực tiễn thường gây ra sự nhầm lẫn giữa việc khuyến mại cho đối tượng khách hàng thường xuyên của doanh nghiệp (việc khuyến mại cho đối tượng là khách hàng thường xuyên có thể thông qua rất nhiều hình thức khuyến mại) và việc khuyến mại theo hình thức tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên (là một cách thức khuyến mại).  Khuyến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về XTTM 

 Về hoạt động quảng cáo 

 Thứ nhất, cần khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp, thiếu thống nhất của nhiều văn bản pháp luật, do nhiều cơ quan khác nhau ban hành về quảng cáo theo hướng chỉ quy định về quảng cáo thương mại ở một văn bản duy nhất đó là Luật Thương mại.  Thứ hai, cần tập trung vào việc quy định nghĩa vụ quảng cáo trung thực. Pháp luật về quảng cáo thương mại ở Hoa Kỳ và  một số nước cũng tập trung chủ yếu vào việc điều chỉnh nghĩa vụ quảng cáo trung thực. Đây là điều mà pháp luật về quảng cáo thương mại của Việt Nam cần  lưu ý trong quá trình hoàn thiện, vừa đảm bảo  quyền lợi của người tiêu dùng, vừa  tạo  cho người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ quảng cáo  thói quen kinh doanh trung thực của doanh nghiệp. Thứ ba, cần đưa ra định nghĩa chính xác về quảng cáo so sánh và thống nhất các đối tượng bị cấm so sánh giữa pháp luật thương mại và pháp luật cạnh tranh.  Về hoạt động công ích 

 Trong xu thế toàn cầu hóa  kinh tế, tại Việt Nam đã hình thành các phòng quan hệ công chúng, đáp ứng  hiệu quả nhu cầu tìm kiếm cơ hội kinh doanh của người sử dụng dịch vụ và nhu cầu lợi nhuận của nhà cung cấp dịch vụ. Thực trạng này đã  tạo ra một mâu thuẫn không nhỏ cho hoạt động của các dịch vụ XTTM ở Việt Nam. Nói cách khác, khi thực hiện quyền tự do kinh doanh, thương nhân trong nước có quyền kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Trong trường hợp không có quy định, sẽ có rủi ro cho cả nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Công tác quản lý nhà nước đối với loại hình dịch vụ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Do yếu tố này, cần có thêm quy định về dịch vụ quan hệ công chúng. Về hình thức pháp lý, quy định bổ sung hình thức xúc tiến thương mại này vào luật thương mại (chương về xúc tiến thương mại), với  nguyên tắc cơ bản là thông tin chính xác, trung thực, tôn trọng sự thật và đảm bảo quyền lợi  của người sử dụng và các thương nhân khác. . Về hoạt động khuyến mãi 

 Đề nghị xem xét  hủy bỏ  nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng quy định tại khoản 4 Điều 96 Luật Thương mại. Quy định này không đảm bảo  quyền lợi của các thương nhân được khuyến mại. Vì số lượng hàng hóa dùng để khuyến mại sẽ tương ứng với số lượng hàng hóa được tiêu thụ. Khi doanh số bán hàng không đạt như kỳ vọng và thương nhân  mất chi phí  cho các chương trình khuyến mãi, rõ ràng lợi ích kinh doanh của họ không được đảm bảo. Ngoài ra, cũng có nhiều vướng mắc phát sinh từ việc khi hàng  khuyến mại là hiện vật, chiết khấu ngân sách được tính theo giá trị. Giá mua bán của các hàng hoá này là khác nhau, không bao gồm các chi phí cần thiết cho việc mua bán và quản lý các hàng hoá này. Đây là quy định nhằm hạn chế việc các thương nhân thực hiện các chương trình khuyến mại gian dối, thiếu trung thực  về cơ cấu, số lượng giải thưởng và  phân bổ giải thưởng cho khách hàng. Tuy nhiên, không phải đơn vị chấp nhận thẻ nào cũng có hành vi gian lận, thiếu trung thực về giá cả, khi việc khách hàng trúng thưởng mang tính may rủi, giá trị còn lại  sau khi hết thời gian khuyến mại hay không. Vì vậy, trong quá trình thực thi pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại cần có biện pháp quản lý, xác minh, giám sát để phát hiện, ngăn chặn hành vi gian lận về giá, trong đó có việc khen thưởng và đưa ra mức xử phạt thích đáng đối với các đối tượng vi phạm. Trên cơ sở xem xét những lợi ích và hạn chế mà pháp luật mang lại,  nghĩa vụ nộp 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách Nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng cần được nghiên cứu xem xét hủy bỏ.  Nghiên cứu  bỏ  quy định về giá trị tối đa của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, giới hạn  thời gian  khuyến mại. Để chống bán phá giá nhằm cạnh tranh không lành mạnh, Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định hạn mức giảm giá  50% giá  hàng hóa, dịch vụ trước thời gian khuyến mại. Ngoài ra, còn có giới hạn  về tổng giá trị  hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại không được vượt quá 50% tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và giới hạn  về thời gian thực hiện khuyến mại bằng tiền chiết khấu là 90 ngày /năm và không quá 45 ngày đối với một lần thăng hạng. Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu có cần thiết phải quy định các giới hạn  tối đa như trên  không, khi pháp luật cạnh tranh chỉ ngăn ngừa nguy cơ bán phá giá nhằm cạnh tranh  với thương nhân hoặc nhóm thương nhân có vị trí thống lĩnh thị trường của cá nhân thương nhân hay không. Để đảm bảo tính trung thực của giải thưởng và việc lựa chọn người trúng thưởng trong các chương trình khuyến mại mang tính may rủi, cần bổ sung quy định về trách nhiệm cá nhân của thương nhân hoặc người đại diện hợp pháp của thương nhân và trách nhiệm cá nhân của nhân viên của người chịu trách nhiệm tổ chức  khuyến mại. chương trình. Trên thực tế, mặc dù pháp luật hiện hành đã quy định nghĩa vụ trung thực của thương nhân trong hoạt động khuyến mại nhưng tình trạng thiếu khách quan, gian dối trong việc lựa chọn người trúng thưởng vẫn xảy ra. Vì vậy, pháp luật phải hoàn thiện quy định buộc thương nhân hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người chịu trách nhiệm tổ chức chương trình khuyến mại phải chịu trách nhiệm hành chính và hình sự về hành vi gian dối, gian dối, lừa dối khách hàng trong  khuyến mại. Trên thực tế, hiện nay có một số hình thức khuyến mại mà Luật Thương mại cũng như Nghị định số 37/2006/NĐ-CP chưa  quy định hoặc có điều chỉnh  quy định  nhưng chưa rõ ràng hoặc gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. được thể hiện và bổ sung trong Luật Thương mại và Nghị định số 37/2006/NĐ-CP, đó là mô hình khuyến mại theo gói; mẫu khuyến mại mua  gói hàng hóa,  dịch vụ (phiếu giảm giá); hình thức khuyến mại “tặng hàng hóa, dịch vụ không thu tiền khi mua hàng” (mua 01 món tặng 01 món). Các hoạt động khuyến mại khác 

 Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ XTTM. Thương nhân kinh doanh dịch vụ XTTM là một bộ phận của hoạt động kinh doanh XTTM. Khi nền kinh tế  phát triển, việc thúc đẩy thương mại thông qua các mối quan hệ dịch vụ sẽ ngày càng trở nên phổ biến. Mặc dù khuyến khích xúc tiến thương mại cho các thương nhân khác nhưng thương nhân cung cấp dịch vụ XTTM vẫn phải  hoạt động XTTM theo quy định của pháp luật. Pháp luật hiện hành còn thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại đối với nhà nước và người tiêu dùng. Vì vậy, việc quy định các quyền và nghĩa vụ phù hợp và cần thiết đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ xúc tiến thương mại là một giải pháp tốt, đảm bảo việc thực hiện các quy định về xúc tiến thương mại. Cụ thể, pháp luật hiện hành về XTTM cần được bổ sung các quy định sau: 

 - Quy định buộc thương nhân khi khuyến mại, quảng cáo, trưng bày hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân khác theo hợp đồng phải thực hiện đầy đủ quy định pháp luật về các hoạt động này và phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hoạt động khuyến mại, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.  - Quy định buộc thương nhân kinh doanh dịch vụ tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ trưng bày tại hội chợ, triển lãm, về điều kiện đối với thương nhân tham gia hội chợ, triển lãm thương mại.  - Bổ sung những hình thức XTTM mới liên quan đến xúc tiến xuất khẩu. Có thể nhận định rằng XTTM tuy đã gặt hái nhiều thành công nhưng công cụ chính sách và pháp lý thời gian qua vẫn tập trung vào các hoạt động XTTM trong nước và hoạt động XTTM truyền thống (khuyến mại; hội chợ, triển lãm, trưng bày, giới thiệu hàng hóa; quảng cáo). Điều này dẫn đến hệ thống pháp luật cũng phản ánh xu thế này, bằng chứng là Luật Thương mại chỉ quy định các hoạt động XTTM truyền thống; chưa phân tách được XTTM trong nước và xúc tiến xuất khẩu (có những yếu tố, cơ chế đặc thù); một số công cụ đã có những thành công nhất định (như trung tâm giới thiệu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam ở nước ngoài) vẫn chưa được nhân rộng, đồng thời một số công cụ chính sách được áp dụng thành công trên thế giới đã được thử nghiệm tại Việt Nam vẫn chưa được thế chế hóa (bảo hiểm xuất khẩu, xúc tiến xuất khẩu hàng hóa của thương nhân, hiệp hội ngành hàng, xúc tiến xuất khẩu tại chỗ...) gây khó khăn, bó buộc sự sáng tạo, năng động của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung các hình thức xúc tiến thương mại mới này trong luật thương mại hoặc luật quản lý ngoại thương để thích ứng với các hình thức xúc tiến thương mại mới như: Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia; chương trình thương hiệu quốc gia; tín dụng xuất khẩu; Bảo hiểm xuất khẩu; Văn phòng đại diện Tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài...  Tóm lại, xúc tiến thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, thu hút ngày càng nhiều khách hàng,  tăng khả năng cạnh tranh, từ đó giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. cũng như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặc dù các thể chế pháp lý điều chỉnh lĩnh vực này  khá toàn diện nhưng vẫn còn một số rào cản ngăn cản việc giải phóng năng lực sản xuất, đặc biệt là từ khu vực  tư nhân. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần lắng nghe  ý kiến ​​của cộng đồng doanh nghiệp để nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về kinh doanh nói chung và pháp luật về khuyến khích doanh nghiệp nói riêng.  (1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr 97.  (2) Khoản 10 mục 3 Luật Thương mại 2005.  (3) Khoản 6 mục 92 Luật Thương mại 2005 quy định về hình thức khuyến mại: bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có kèm theo việc tham gia các chương trình khuyến mại có tính chất đặc thù. Việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và số tiền thu được dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giá công bố.




 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo