
luật thế chấp tàu biển
1. Thế chấp tàu biển là gì?
Điều 37 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 quy định về thế chấp tàu biển, theo đó thế chấp tàu biển được hiểu là việc chủ tàu biển dùng tàu biển để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với chủ tàu biển và bên nhận thế chấp và không bắt buộc phải thực hiện giao tàu biển cho bên nhận thế chấp theo quy định của pháp luật. Do đó, đối với bên thế chấp tàu biển là chủ tàu, pháp luật quy định quyền của chủ tàu khi thế chấp tàu biển. Việc thế chấp tàu biển Việt Nam sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với tàu đang đóng, quy định về thế chấp tàu cũng được áp dụng theo quy định của Luật thế chấp tàu.
– Về hợp đồng thế chấp tàu biển: Cũng như các loại hợp đồng khác, hợp đồng thế chấp tàu biển Việt Nam phải được giao kết bằng văn bản.
2. Quy định thế chấp tàu biển Việt Nam:
Điều 38 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định về nguyên tắc thế chấp tàu biển Việt Nam, theo đó khi thế chấp tàu biển cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
– Nguyên tắc 1: Trong quá trình thế chấp tàu biển, tàu biển thế chấp không được chuyển quyền sở hữu nếu không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp.
- Nguyên tắc 2: Trong hợp đồng thế chấp tàu biển có thỏa thuận khác về việc thế chấp tàu biển thì tàu biển thế chấp phải được chủ tàu mua bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
– Nguyên tắc 3: Được chuyển nhượng tương ứng trong trường hợp bên nhận thế chấp đã chuyển toàn bộ hoặc một phần quyền của mình đối với khoản nợ được bảo đảm bằng tàu biển thế chấp cho người khác.
– Nguyên tắc 4: Một tàu biển có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, nếu có giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Đối với những trường hợp tàu biển có từ hai chủ sở hữu trở lên thì việc thế chấp tàu biển phải được sự đồng ý của tất cả các chủ sở hữu đó, trừ những trường hợp các bên có những thỏa thuận khác.
Tại Điều 3 Thông tư 01/2019/TT-BTP hướng dẫn đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển quy định về các trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển, theo đó, bao gồm những trường hợp đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển như sau: (1) Cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay; thế chấp tàu biển, (2) Sửa chữa sai sót nội dung biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển đã đăng ký do lỗi của cơ quan đăng ký, (3) Bảo lưu quyền sở hữu trong trường hợp mua bán tàu bay, tàu biển có bảo lưu quyền sở hữu, (4) Đăng ký văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm là tàu bay, tàu biển trong trường hợp đã đăng ký cầm cố, thế chấp, (5) Thay đổi nội dung biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển đã đăng ký, (6) Xóa đăng ký biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, tàu biển.
– Việc đăng ký quốc tịch tàu cũng có thể được xét trong thuật ngữ kinh tế. Do đó nó là điều kiện cần thiết cho hoạt động thương mại. Chỉ những tàu đã đăng ký mới được phép tham gia vào hoạt động thương mại. Cần lưu ý rằng đăng ký tàu không giống như cấp giấy phép. Cấp phép luôn liên quan đến nguyên tắc số lượng khi tiếp cận thị trường. Trong khi đăng ký lại có thể được coi là tiếp cận thị trường dựa trên các quy tắc chất lượng. Bất kỳ tàu đã đăng ký nào đều được phép kinh doanh.
– Đăng kiểm tàu biển có thể coi là một khoản chi phí lớn đối với chủ tàu. Một con tàu chỉ có thể được đăng ký nếu nó đáp ứng các hướng dẫn và yêu cầu an toàn thích hợp. Vì vậy, để đăng kiểm tàu của mình, các chủ tàu phải bỏ tiền ra.
– Đăng ký tàu biển là hoạt động hành chính, theo đó quốc tịch, quyền và nghĩa vụ được trao cho tàu biển. Theo luật pháp quốc tế, mỗi quốc gia có thể đặt ra các điều kiện để kiểm soát việc cấp quốc tịch.
Như vậy, tàu biển có thể được đăng ký ở bất kỳ quốc gia nào nếu nó đáp ứng các yêu cầu của các quốc gia đó.
– Việc đăng ký tàu được đánh dấu bằng việc tàu được đăng ký trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia. Cơ quan đăng ký tàu quốc gia sẽ liệt kê tất cả các tàu đã đăng ký tại quốc gia đó, và vì vậy một con tàu đăng ký tại một quốc gia sẽ có phạm vi và trách nhiệm pháp lý của quốc gia đó với các tàu đã đăng ký. Một quốc gia có thể áp dụng các quyền “thẩm quyền của quốc gia treo cờ” đối với tàu bằng cách đưa tàu vào cơ quan đăng ký quốc gia và đảm nhận các trách nhiệm quốc gia và quốc tế của quốc gia có cờ được gắn trên tàu đó.
– Việc đăng ký có thể được xem xét từ quan điểm của pháp luật quốc gia đối với các tàu thuộc sở hữu toàn bộ hoặc một phần của một công dân hoặc tổ chức của quốc gia đó. Đối với tàu biển thuộc sở hữu của mình, đây chỉ là tỷ lệ vốn do công dân, tổ chức của quốc gia góp vốn nhằm mục đích hưởng ưu đãi khi đăng ký tàu biển. Việc đăng ký tàu cũng có thể được xem xét đối với người thuê tàu trần, quyền công dân có thể được cấp với điều kiện người thuê tàu là công dân hoặc tổ chức của quốc gia đó. Điều đó cũng thể hiện đặc điểm của đăng ký tàu biển, đó là sự thừa nhận của quốc gia đối với quyền sử dụng con tàu của chủ tàu (người thuê tàu). Tất nhiên, tùy thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội khác nhau của mỗi nước mà pháp luật nước này có thể điều chỉnh về thủ tục đăng ký nhằm hạn chế hoặc khuyến khích thuê tàu.
– Cũng có thể yêu cầu nơi đăng ký chính thức của tổ chức chủ tàu phải được đặt tại quốc gia đó. Tương tự, văn phòng chính hoặc nơi đăng ký chính thức của công ty điều lệ có thể được yêu cầu đặt tại quốc gia công dân. Các yêu cầu liên quan đến quyền của chủ tàu và văn phòng chính của cơ sở chính thức sẽ quyết định mức độ kiểm soát của Nhà nước khi xem xét cấp phép đăng ký tàu.
– Một số quốc gia yêu cầu tàu phải được vận hành bởi một số hoặc tất cả thủy thủ đoàn trong nước. Các yêu cầu của thuyền viên giúp quốc gia treo cờ kiểm soát tốt hơn con tàu trong trường hợp có chiến tranh…Các yêu cầu tương tự có thể được giải quyết thêm trong chính sách việc làm quốc gia.
– Quy tắc đăng ký không thể được áp dụng thống nhất cho tất cả các tàu. Một số tàu được miễn hoặc tuân theo các quy tắc khác nhau.
Theo luật quốc tế thông thường, các tàu thuộc sở hữu nhà nước đương nhiên mang quốc tịch của quốc gia đó. Điều này có thể được quy định trong luật pháp quốc gia; Không giống như các tàu viễn dương, các tàu nội địa không bắt buộc phải tuân thủ luật pháp quốc tế về việc treo cờ. Tuy nhiên, nếu một hiệp định khu vực hoặc song phương yêu cầu các tàu đi vào nội địa phải treo cờ, các quy định về quốc tịch của các tàu đó trở nên cần thiết. Hiện nay, trên thế giới, nhiều nước chưa có quy định phân biệt đối xử với du lịch tàu biển. Tuy nhiên, những tàu này thường bị loại khỏi đăng ký, một cách rõ ràng hoặc vì chúng không đáp ứng chiều dài hoặc trọng tải tối thiểu cần thiết cho tàu. Trong trường hợp này, theo luật pháp quốc tế thông thường, các tàu du lịch này sẽ phải đáp ứng các yêu cầu quốc gia áp dụng cho tàu biển, do đó thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Tuy nhiên, một quốc gia khác có thể từ chối chấp nhận quốc tịch của tàu nếu không có tài liệu hỗ trợ do quốc gia treo cờ cấp.
– Theo đó, pháp luật Việt Nam hiện hành cũng quy định việc thế chấp tàu biển chấm dứt trong các trường hợp sau: (1) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; (2) Tàu biển thế chấp bị hư hỏng toàn bộ; (3) Việc thế chấp tàu biển bị hủy bỏ hoặc thay thế bằng một hình thức bảo lãnh khác; (4) Tàu biển thế chấp đã được xử lý theo pháp luật; (5) Theo thỏa thuận của các bên.
Nội dung bài viết:
Bình luận