1. Thế nào là đe dọa giết người?
Đe dọa giết người được hiểu là hành vi làm cho người khác lo sợ người đe dọa sẽ thực hiện hành vi giết người.
2. Tội đe dọa chết theo điều 133 BLHS
Điều 133 BLHS 2015 quy định về tội đe dọa chết người như sau:
- Người nào đe dọa giết người, nếu có lý do làm cho người bị đe dọa sợ mà việc đe dọa đó sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm. .
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
Dành cho 02 người trở lên;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
Vì người thi hành công vụ hoặc vì động cơ chính thức của nạn nhân;
Đối với trẻ em dưới 16 tuổi;
Để che giấu hoặc tránh bị truy tố về một tội phạm khác.

Luật đe doạ giết người
3. Quy định áp dụng tội đe dọa chết theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự
Việc áp dụng tội đe dọa chết được quy định tại Chương 2 Nghị quyết 04-HĐPTPTANDTC/NQ ngày 29-11-1986 như sau:
- Tội đe dọa chết phải có đủ hai dấu hiệu bắt buộc của hành vi đe dọa chết; có lý do làm cho người bị đe dọa lo sợ việc đe dọa sẽ được thực hiện.
- Phải xác định hành vi đe dọa giết người là có thật (như: trực tiếp nói sẽ giết, vung phương tiện như súng, dao để đe dọa) và phải xem xét “động cơ khiến người bị đe dọa sợ hãi”. ." …”, một cách khách quan, rộng ra là:
Thời gian;
Tình huống;
Địa điểm diễn ra các sự kiện;
Nguyên nhân gốc rễ (nếu có) và nguyên nhân trực tiếp của sự cố;
Mối quan hệ giữa bên đe dọa và bên bị đe dọa (về thể trạng, tuổi tác, trình độ học vấn…).
Vì vậy, thông thường mọi người đều phải lo lắng về mối đe dọa (về thể lực, tuổi tác, trình độ, v.v.). Nếu việc ai đó lo lắng về việc thực hiện mối đe dọa là điều bình thường, thì đây là một trường hợp lo lắng có cơ sở.
Nếu ngoài hành vi đe dọa còn có hành vi đe dọa chuẩn bị giết người (như mài dao, lau súng…) thì hành vi này bị coi là tội giết người (ở giai đoạn chuẩn bị giết người). Nếu sau khi dọa giết người bị đe dọa thì xử lý tội giết người.
Nếu dọa giết người để chống đối người thi hành công vụ thì bị xử lý về tội chống người thi hành công vụ mà không áp dụng tội đe dọa giết người.
4. Cấu thành tội đe dọa chết theo điều 133 BLHS
* Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi: Thủ phạm đã thực hiện hành vi đe dọa giết nạn nhân trái pháp luật. Hành vi đe dọa này có thể được thể hiện bằng lời nói, hành động, cử chỉ… không nhằm mục đích giết nạn nhân mà chỉ làm nạn nhân lo lắng, sợ hãi, hình thành trong tâm trí nạn nhân suy nghĩ rằng kẻ hung hãn sẽ thực hiện hành vi giết nạn nhân như bị đe dọa.
- Về hậu quả: Gây tâm lý lo lắng, sợ hãi ở nạn nhân; nạn nhân thực sự tin rằng hành vi đe dọa sẽ do kẻ bạo hành thực hiện.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
- Về lỗi: Người thực hiện hành vi do lỗi trực tiếp vô ý. Theo đó, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất đe dọa nạn nhân, làm cho họ lo sợ hậu quả như bị đe dọa, thấy trước hậu quả của hành vi này và mong muốn hậu quả đó xảy ra;
- Mục đích phạm tội: Nhằm uy hiếp nạn nhân phải làm hoặc không được làm một việc gì đó.
* Khách thể của tội phạm:
Các tội xâm phạm đến các quan hệ liên quan đến quyền sống của một người được pháp luật bảo vệ.
* Khách thể của tội phạm:
- Người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
5. Các mối đe dọa giết người được xử lý như thế nào trên mạng xã hội?
Nếu hành vi đe dọa giết người trên mạng xã hội chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt hành chính theo điểm g khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, như sau:
Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Lưu ý: Mức phạt trên áp dụng đối với tổ chức, nếu cá nhân có hành vi vi phạm tương tự thì mức phạt là ½.
(Khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP)
Nội dung bài viết:
Bình luận