Một số quy định pháp luật cho người thành niên

Theo quy định của pháp luật, tiêu chí để phân biệt giữa thanh niên, người thành niên và người chưa thành niên là độ tuổi.  Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người  đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Một người dưới mười tám tuổi là trẻ vị thành niên. Người trưởng thành  là người đã phát triển toàn diện về thể chất,  tinh thần và tâm hồn và phải chịu trách nhiệm về  hành vi của mình. Người chưa thành niên là người chưa phát triển  toàn diện về thể chất, chưa được hưởng đầy đủ các quyền  và nghĩa vụ của một công dân.  Với những đặc điểm về thể chất và tinh thần của người chưa thành niên, pháp luật nước ta đã có những quy định riêng đối với nhóm người này trong từng lĩnh vực cụ thể, như: Xử phạt dân sự, hình sự,  hành chính. … 

 

luật cho người thành niên
luật cho người thành niên

 I. Một số quy định của pháp luật dân sự đối với người chưa thành niên 

 1. Năng lực  dân sự, năng lực hành vi dân sự của người: 

 Để cá nhân tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói riêng thì cá nhân phải có năng lực chủ thể. Năng lực của chủ thể được cấu thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi. 

a) Năng lực  dân sự 
 Điều 14 BLDS quy định: “Năng lực  dân sự của một người là khả năng của một người có các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự. Mọi cá nhân đều có năng lực hành vi dân sự như nhau. Năng lực  dân sự của một người có được  khi  sinh ra và chấm dứt khi chết. » 

 Cá nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự sau đây: 

 - Quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. 

 - Quyền sở hữu,  thừa kế và các quyền  tài sản khác.

 - Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ này. Năng lực  dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp  pháp luật có quy định.  

b) Năng lực hành vi dân sự của người: 
 Điều 17 BLDS quy định: “Năng lực hành vi dân sự của thể nhân là khả năng của một thể nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.  Năng lực hành vi dân sự của các cá nhân là không giống nhau, phụ thuộc vào các yếu tố như độ tuổi, thể trạng của mỗi người. 

 - Danh cho ngươi lơn: 

 Người  từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự. 

 - Đối với người chưa thành niên từ  sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi: 

 Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi giao kết, thực hiện hành vi dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ hành vi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc  luật có quy định khác. Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng, có tài sản riêng bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện hành vi dân sự mà không cần phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. , trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.  

- Người mất năng lực hành vi dân sự: Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. 

- Hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật của họ soạn thảo và thực hiện. 

 - Theo quy định tại Điều 141 BLDS thì người đại diện theo pháp luật của thể nhân bao gồm: cha, mẹ của con chưa thành niên; gia sư cho phòng; người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. 

 - Mất năng lực hành vi dân sự: Trong trường hợp một người do mắc bệnh tâm thần hoặc  bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. mất năng lực hành vi dân sự theo kết luận của cơ quan giám định.  Khi không còn căn cứ để tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của  người này hoặc những người có quyền, lợi ích xung quanh, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. trong việc dân sự. quyền công dân. Hành vi dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập, thực hiện. 

 - Bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người nghiện ma túy hoặc dùng chất kích thích khác dẫn đến hủy hoại tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch  phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.  Khi không còn căn cứ để tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của  người này hoặc những người có quyền, lợi ích liên quan, của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ hiệu lực hành vi dân sự. quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự. khả năng hành động. 

2. Quyền nhân thân: 

 Điều 24 BLDS quy định: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mọi người và không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp  luật có quy định khác.  Bộ luật Dân sự quy định 26 quyền nhân thân của cá nhân bao gồm: Quyền có họ, tên; thay đổi họ, tên; nhận dạng dân tộc; được sinh ra; bị tuyên bố là đã chết; quyền  hình ảnh; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và thân thể; hiến tạng; hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết; nhận bộ phận cơ thể người; thay đổi giới tính; được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; bí mật đời tư; kết hôn; quyền bình đẳng của vợ chồng; được hưởng sự quan tâm chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; ly hôn; nhận, không nhận cha, mẹ, con;  nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về nhà ở; tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú; trì trệ; tự do kinh doanh; Tự do nghiên cứu và sáng tạo.  Quyền nhân thân là  quyền  cơ bản của con người được pháp luật bảo vệ. Tôn trọng quyền nhân thân của người khác là nghĩa vụ của mọi người và đó cũng là nghĩa vụ của mọi người. Về nguyên tắc, khi thực hiện quyền nhân thân của mình, họ không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. 

 II. Quy định pháp luật về một số chính sách đối với người học 

 1. Học bổng và trợ cấp xã hội: 

a) Các chủ đề để xem xét cho học bổng khuyến khích học tập: 
 - Học sinh đạt kết quả học tập loại giỏi ở trường chuyên biệt, trường năng khiếu; 

 - Người học có kết quả học tập, rèn luyện từ loại khá trở lên trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. 

b) Đối tượng nhận học bổng: 
 - Sinh viên hệ cử tuyển; 

 - Học sinh trường dự bị đại học, trường phổ thông dân tộc nội trú; 

 - Học viên các trường dạy nghề của thương binh, con thương binh. 

c) Đối tượng được trợ cấp, miễn, giảm học phí và ưu tiên trong tuyển sinh: 
 - Thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh; 

 - Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, người có thành tích xuất sắc trong lao động, học tập, sản xuất, chiến đấu; 

 - Học sinh, sinh viên là con liệt sĩ, con thương binh, con của người hưởng chính sách như thương binh, con Bà mẹ Việt Nam anh hùng, con Anh hùng lực lượng vũ trang, con Anh hùng lao động, con của người có công giúp đỡ cách mạng, con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; con của người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; con của người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế; con của người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945 hoặc người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19/4/1945; 

 - Người dân tộc thiểu số ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; 

 - Học sinh, sinh viên có cha mẹ thường trú tại vùng cao miền núi (trừ thành phố, thị xã, thị trấn) và vùng sâu hải đảo; 

 - Người mồ côi không nơi nương tựa; 

 - Người tàn tật, người khuyết tật có khó khăn về kinh tế; 

 - Người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vượt khó học tập; 

 - Học sinh, sinh viên là con công nhân, viên chức mà cha hoặc mẹ bị tai nạn lao động được hưởng trợ cấp thường xuyên; 

 - Học sinh, sinh viên có gia đình thuộc diện hộ nghèo theo quy định chung của nhà nước; 

 - Học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở đi học nghề.  d) Đối tượng không phải đóng học phí: 

 - Học sinh tiểu học trường công lập; 

 - Học sinh, sinh viên các trường sư phạm, người theo học các khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm.  Đối tượng là học sinh, sinh viên các trường sư phạm, người theo học các khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm được ưu tiên trong việc xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội. 

 2. Tín dụng giáo dục 

 Chính sách tín dụng được quy định tại Điều 91 Luật Giáo dục và Quyết định số 157/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên và các văn bản sửa đổi, bổ sung.  Chính sách tín dụng  sinh viên được áp dụng nhằm hỗ trợ  sinh viên gặp khó khăn, giúp trang trải chi phí  học tập và sinh hoạt của  sinh viên trong năm học. học phí; chi phí  sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại.  a) Người đi vay. Học  sinh  có hoàn cảnh khó khăn  học tại các trường đại học (hoặc tương đương đại học), cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và  các cơ sở dạy nghề được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Giáo dục và Đào tạo. 

 - Học  sinh  mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ còn cha hoặc mẹ mà người còn lại không có khả năng lao động. 

 - Sinh viên là thành viên của hộ gia đình thuộc một trong các diện: Hộ nghèo theo tiêu chuẩn quy định của pháp luật; hộ  có  thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150%  thu nhập bình quân đầu người của hộ  nghèo theo quy định của pháp luật.  - Học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính do bị tai nạn, ốm đau, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh trong thời gian  học tập có xác nhận của Ủy ban nhân dân thành phố, quận, huyện nơi cư trú.  

c) Phương thức cho vay: 
 Việc cho vay  sinh viên được thực hiện dưới hình thức cho vay thông qua hộ gia đình. Đại diện hộ gia đình là người trực tiếp vay vốn và là người có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng Chính sách xã hội. Trường hợp học  sinh  mồ côi cả cha lẫn mẹ hoặc chỉ mồ côi cha hoặc mẹ mà người còn lại không có khả năng lao động thì được vay vốn trực tiếp  tại Ngân hàng Chính sách xã hội nơi  trường đóng trụ sở.  d) Điều kiện vay vốn: 

 - Sinh viên thuộc hộ gia đình cư trú hợp pháp tại địa phương nơi cho vay đáp ứng các tiêu chí được vay  nêu trên. 

 - Đối với học sinh, sinh viên năm thứ nhất phải có giấy tiếp nhận hoặc giấy xác nhận nhập học của nhà trường.  

- Đối với học sinh, sinh viên từ năm thứ 2 trở lên phải có giấy xác nhận của nhà trường về việc  học tại trường và chưa bị xử phạt hành chính trở lên về các hành vi: cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp, buôn lậu.  

III. Các quy định pháp luật liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên 

 Người chưa thành niên  vi phạm hành chính sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 7  Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. 

  1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính sẽ bị phạt cảnh cáo.  
  2. Người từ  16 tuổi đến  18 tuổi vi phạm hành chính  có thể bị  xử phạt  hành chính theo quy định. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không  quá một nửa mức tiền phạt đối với người thành niên; nếu không có tiền nộp phạt thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay.  
  3. Người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật sau đây bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở chữa bệnh 

a) Đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm: 
 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự; 

 Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng; 

 Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên, người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định.  

b) Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm: 
 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự; 

 Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định; 

 Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. 

c) Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh: Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định.  Không đưa vào cơ sở chữa bệnh người bán dâm dưới 16 tuổi.  

  1. Người chưa thành niên vi phạm hành chính gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.  

Điều 5 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hành chính của người chưa thành niên gây ra: Người chưa thành niên vi phạm hành chính mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường được thực hiện theo quy định tại Điều 40 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và các khoản 2, 3 Điều 606 của Bộ luật Dân sự năm 2005, cụ thể: 

a) Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.  Trường hợp thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì những cơ quan, tổ chức này chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hình vi dân sự phải bồi thường.  
b) Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.  c) Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.  

IV. Quy định chung về  luật hình sự đối với người chưa thành niên 

 1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 

(Điều 12 Bộ luật hình sự  1999) 

  Người trên 16 tuổi  phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 

 - Người  đủ 14 tuổi  nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng  hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách hình phạt của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự là người có năng lực trách nhiệm hình sự (người đủ điều kiện  có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội).  Căn cứ vào tính chất và tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, BLHS phân loại tội phạm thành 4 loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.  Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm không gây nguy hại  lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; 

 Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là  bảy năm tù; 

 Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại  lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là  mười lăm năm tù; 

 Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Vị thành niên (dưới 18 tuổi) vẫn đang  phát triển cả về tinh thần và thể chất. Các em chưa có tầm nhìn nhân bản và toàn cầu về đời sống xã hội như người lớn. Như vậy, pháp luật quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng (phạm tội do cố ý hoặc không cố ý) và  tội rất nghiêm trọng do cố ý; Người trên 16 tuổi  phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm, tuy nhiên người dưới 18 tuổi được hưởng các chính sách giảm nhẹ  quy định tại Chương X của BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 1999. 2009). 

 2. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội: 

(Điều 69 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung  2009) 

a) Việc chăm sóc người chưa thành niên phạm tội trước hết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.  Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên,  cơ quan công quyền có thẩm quyền phải xác định những nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm  của tội phạm, nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm.  
b) Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu  phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, không gây nguy hiểm nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức của người đó đồng ý. giám sát và giáo dục.  
c) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng các chế tài đối với họ chỉ được thực hiện  trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội,  đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. . d) Khi xét xử, nếu xét thấy không cần thiết phải xử phạt  người chưa thành niên phạm tội thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp  quy định tại Điều 70 của BLHS. d) Không áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.  Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội  mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội tương ứng. Hình phạt tiền không áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội  từ  14 tuổi trở xuống. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
 đ) Bản án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi họ chưa đủ 16 tuổi thì không tính đến việc xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.  Việc xử lý, áp dụng các biện pháp hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phải được tính đến nhằm bảo đảm mục đích chính là giáo dục, uốn nắn, răn đe những hành vi lệch lạc, làm cho họ thấy lỗi, tự  sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Nói cách khác, mức  xử phạt hình sự đối với chủ thể này phải đảm bảo  mục tiêu là  sự phát triển lành mạnh của người chưa thành niên.  Đối với người chưa thành niên, ngoài các điều kiện chung để xét miễn trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự, nếu họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nhưng gây thiệt hại ít thì có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên (không nhất thiết phải là người chưa thành niên). các tình tiết giảm nhẹ  quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS) và được gia đình, cơ quan, tổ chức  giám sát, giáo dục thì có thể được coi là miễn trách nhiệm hình sự. Quy định này nhằm mở rộng điều kiện để người chưa thành niên phạm tội có cơ hội sửa chữa lỗi lầm của mình trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát, giáo dục, giúp đỡ của gia đình hoặc cơ quan, tổ chức.  

3. Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 

 Đối với người chưa thành niên phạm pháp, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp  giáo dục, phòng ngừa là giáo dục tại xã, huyện, huyện hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.  Biện pháp giáo dục tại thành phố, quận, huyện có thể được áp dụng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Người được giáo dục ở xã, quận, huyện phải thực hiện đầy đủ  nghĩa vụ  học tập, lao động, tôn trọng pháp luật dưới sự giám sát, hướng dẫn của cơ quan xã, huyện, huyện, xã do Tòa án phân công. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có thể áp dụng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu xét thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân, tính mạng của người đó mà phải đưa  vào cơ sở giáo dục có kỷ luật nghiêm minh. . Nếu người được giáo dục tại xã, huyện, bang hoặc người bị đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành được một nửa thời gian do tòa án ấn định và có nhiều tiến bộ,  theo đề nghị của  cơ quan, cơ quan, trường học được phân công trách nhiệm giám sát, giáo dục thì Toà án có thể ra quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại thị xã, huyện, thị trấn hoặc thời hạn giáo dục tại trường giáo dưỡng.  4. Hình phạt  áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội: 

 Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; tù có thời hạn.  a) Phạt cảnh cáo được áp dụng đối với người chưa thành niên từ  16 tuổi đến  18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất, không có yếu tố định lượng (thời hạn, số lượng), thể hiện thái độ không đồng tình của Nhà nước đối với hành vi phạm tội của bị cáo và nhắc nhở  không được tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.  b) Phạt tiền: 

 Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ  16  đến  18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc sở hữu tài sản. Số tiền phạt  đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một nửa số tiền phạt mà pháp luật quy định.  c) Cải tạo không giam giữ: 

 Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội thì không bị trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không được quá một nửa thời hạn do luật  định.  d) Hình phạt tù: 

 Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù với thời hạn sau đây: 

 - Đối với người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá ba phần tư mức hình phạt tù mà điều luật đã quy định; 

 - Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là hình phạt tù  thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá một nửa mức hình phạt tù mà điều luật đã quy định.  5. Tổng hợp hình phạt đối với nhiều tội: 

 Đối với một người phạm tội nhiều lần, phạm tội  trước khi đủ 18 tuổi và phạm tội  sau khi đủ 18 tuổi thì áp dụng mức án tổng hợp  như sau: 

 Nếu phạm tội nặng nhất mà người đó chưa đủ 18 tuổi thì hình phạt chung không được vượt quá mức  cao nhất của bản án đối với người chưa thành niên  bị phạt tù. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung được áp dụng như đối với tội phạm nặng.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo