Quy định chung về người bào chữa
Khái niệm “bị cáo” lần đầu tiên được ghi nhận trong sắc lệnh quy định tổ chức luật sư ngày 10-10-1945. Nhưng sắc lệnh này chỉ quy định quyền bào chữa của luật sư và điều kiện để trở thành luật sư, mà không quy định những người khác cũng có quyền bào chữa. Kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 được bổ sung, sửa đổi năm 2000 và được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 sửa đổi, bổ sung cơ bản, xác định rõ địa vị pháp lý của người bào chữa. Như vậy, luật sư bào chữa có thể là luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bảo vệ nhân dân. Luật sư bào chữa do bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo lựa chọn. Trong trường hợp pháp luật quy định phải có người bào chữa mà bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ không kêu gọi người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ.
Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa, luật sư bào chữa có thể là Thủ trưởng cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Chánh án Toà án, Hội đồng xét xử; cấp giấy chứng nhận luật sư bào chữa. Trong cùng một thời điểm, người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều bị can, bị cáo trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không xung đột với nhau. Bị can, bị cáo có thể có một, hai hoặc nhiều luật sư bào chữa. Người tiến hành tố tụng trong vụ án hoặc người thân thích của những người đó hoặc người tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án không còn quyền bào chữa trong vụ án này. Luật sư bào chữa tham gia tố tụng ngay khi tiến hành tố tụng đối với bị cáo, trong trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc bị truy nã thì luật sư bào chữa tham gia tố tụng ngay khi tuyên quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật việc điều tra đối với các tội phạm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì Kiểm sát viên quyết định đưa luật sư bào chữa vào tham gia tố tụng ngay sau khi kết thúc điều tra. Người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi bị can và được sự đồng ý của Điều tra viên thì hỏi bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác. Luật sư bào chữa có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; đưa ra chứng cứ và yêu cầu; gặp bị can, bị cáo bị tạm giam; đọc hồ sơ và ghi chép cần thiết sau khi kết thúc điều tra; có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại với cơ quan tiến hành tố tụng, kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên, người có khuyết tật về thể chất hoặc tâm thần. Luật sư bào chữa được yêu cầu dùng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm rõ những tình tiết xác định sự vô tội của bị can, bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo; trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận mà không có lý do chính đáng: không được tiết lộ những bí mật mà mình biết được trong khi thực hiện chức năng của mình.
Những người không có lời bào chữa
- Người tiến hành tố tụng trong trường hợp này; Người thân thích của người tiến hành tố tụng hoặc người đang tiến hành tố tụng trong trường hợp này: Người tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ cả về việc buộc tội và gỡ tội. Luật sư bào chữa tham gia tố tụng để minh oan cho bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Người tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong cùng một vụ án và không thể thực hiện đúng nghĩa vụ chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa cùng một lúc. Người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được làm luật sư bào chữa trong vụ án đó vì việc họ tham gia bào chữa trong vụ án có thể ảnh hưởng đến tính khách quan trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng là người thân thích của họ.
Những người can thiệp trong vụ án này với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá bất động sản, người phiên dịch, người dịch thuật: những người này phải thực hiện nghĩa vụ của mình một cách trung thực chứ không chỉ với ý nghĩa là tha tội cho bị can, bị cáo. Vì vậy, họ không thể đồng thời là luật sư bào chữa trong cùng một vụ án.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người chưa được xóa án tích, người bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Một luật sư bào chữa có thể bào chữa cho nhiều bị can trong cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không xung đột với nhau. Nhiều luật sư có thể bào chữa cho một bị cáo.
Quyền bào chữa của người dưới 18 tuổi
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và các bên liên quan (Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự): Bị can có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định.
– Quyền bào chữa của Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt (Điều 58 Bộ Luật tố tụng hình sự), Người bị tạm giữ(Điều 59 Bộ Luật tố tụng hình sự), Bị can(Điều 60 Bộ Luật tố tụng hình sự), Bị cáo (Điều 61 Bộ Luật tố tụng hình sự): Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
– Quyền bảo vệ của Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố(Điều 57 Bộ Luật tố tụng hình sự), có thể Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam (Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam):Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý;
– Lựa chọn người bào chữa (Điều 75, Điều 422 Bộ Luật tố tụng hình sự):Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.
Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội có quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi bị buộc tội. Trường hợp người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không có người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
– Chỉ định người bào chữa (Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự):Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
* Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp trên:(a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa; (b) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý; (c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.
– Thay đổi hoặc từ chối người bào chữa (Điều 77 Bộ Luật tố tụng hình sự):
Những người có quyền từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa: (a) Người bị buộc tội; (b) Người đại diện của người bị buộc tội; (c) Người thân thích của người bị buộc tội.
Mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi (điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng hình sự)
Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối.
– Gặp thân nhân, người bào chữa: Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được gặp thân nhân, người bào chữa, với số lần thăm gặp được tăng gấp đôi so với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người đủ 18 tuổi trở lên. (Điều 34 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam)
– Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; người bị tố giác, kiến nghị khởi tố được giải thích, thông báo quyền nhờ người bào chữa và được hỗ trợ thủ tục nhờ người bào chữa (Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 8 Thông tư 46/2019/TT-BCA của Bộ Công an ngày 10/10/2019)
Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam có đơn yêu cầu người bào chữa thì Cơ quan điều tra, cơ sở giam giữ đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Cơ sở giam giữ có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án biết.
Việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam được gửi trực tiếp tại trụ sở cơ quan này hoặc gửi qua đường bưu chính. Nếu gửi trực tiếp tại trụ sở cơ quan đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì phải có ký nhận tại sổ giao nhận công văn, tài liệu.
Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam chưa yêu cầu nhờ người bào chữa thì trong lần đầu tiên lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, lần đầu tiên hỏi cung bị can, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải hỏi rõ người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can có nhờ người bào chữa hay không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản. Nếu họ nhờ người bào chữa thì Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra hướng dẫn họ viết đơn yêu cầu bào chữa. Nếu không nhờ người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, 24 giờ kể từ lần hỏi đầu tiên đối với bị can, Điều tra viên, Cán bộ điều tra đã lấy lời khai, hỏi cung phải thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can biết.
Trường hợp người bị giữ khẩn cấp có văn bản yêu cầu người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được văn bản yêu cầu của người bào chữa, cơ quan nhận được yêu cầu của người bị giữ khẩn cấp phải chuyển văn bản yêu cầu đó cho luật sư bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của người bị giữ khẩn cấp. Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không chỉ định bào chữa thì tổ chức tiếp nhận yêu cầu phải chuyển yêu cầu này cho người đại diện hoặc thân nhân của họ để những người này yêu cầu bào chữa. Việc chuyển yêu cầu được thực hiện qua đường bưu điện hoặc trực tiếp đến trụ sở của tổ chức quản lý người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp nếu người bào chữa, người đại diện hoặc thân nhân muốn nhận trực tiếp tại trụ sở của tổ chức này và có ký nhận vào sổ giao nhận. Trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không yêu cầu người bào chữa thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ ngày soạn thảo biên bản giao lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tổ chức quản lý người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp biết.
Luật sư bào chữa là gì?
Luật sư bào chữa hoặc luật sư có kiến thức sâu rộng về pháp luật, có bằng, chứng chỉ luật sư và có kinh nghiệm tham gia tố tụng và đại diện, bào chữa cho thân chủ của mình để khẳng định quyền hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...
Việc thuê luật sư bào chữa giỏi với nhiều năm kinh nghiệm mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng trong quá trình tố tụng tại tòa án hay các vụ án dân sự, hình sự. Giúp thân chủ lấy lại quyền lợi đã mất và dùng lời lẽ, bằng chứng thuyết phục kết hợp với chứng cứ ngụy tạo để giảm nhẹ hình phạt liên quan đến thân chủ của mình.
Nội dung bài viết:
Bình luận