Nguyên tắc xác định lỗi vô ý trong pháp luật dân sự được quy định tại văn bản quy phạm pháp luật nào? Tổng hợp câu hỏi:
Tôi có câu hỏi về nguyên tắc sơ suất nghiêm trọng và sơ suất nhẹ ở người. Vậy làm thế nào để phân biệt? Và có văn bản nào quy định cụ thể việc này không? Mong đợi để nhận được một phản ứng. Xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty ACC GROUP. Với thắc mắc của bạn, Công ty ACC GROUP xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau trong nhận thức về yếu tố lỗi nhưng nhìn chung đều khẳng định lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý. Trong các quy định của pháp luật hình sự có sự tách lỗi vô ý thành hai trường hợp với tính chất mức độ khác nhau, cụ thể là lỗi vô ý gồm lỗi vô ý nặng và lỗi vô ý nhẹ mà khái niệm chính xác được sử dụng trong luật là Lỗi vô ý vì quá tự tin và Lỗi vô ý do cẩu thả ( Điều 11 Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 sẽ thay thế Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009). Theo như quy định pháp luật dân sự hiện nay không có một quy định cụ thể về việc xác định thế nào là lỗi vô ý nặng và vô ý nhẹ. Tuy nhiên yếu tố lỗi được quy định rải rác ở các quy định và có ý nghĩa quan trọng trong vấn đề xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải thỏa mãn bốn điều kiện: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại; người gây thiệt hại có lỗi)

1.Khái niệm lỗi trong các qui định pháp luật dân sự
Hành vi có lỗi, theo quy định tại Điều 309 “Bộ luật dân sự năm 2015” thì:
“Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 1 Điều 309 trên đây quy định lỗi do thực tế đã vi phạm nghĩa vụ dân sự thì người thực hiện hành vi này bị coi là có lỗi. Theo quy định tại khoản 2, điều 309 “BLDS 2015” thì nội dung của khoản này có ý nghĩa dẫn chiếu trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Khoản 2 Điều 309 “BLDS 2015” quy định:
“Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành động của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện và hoặc muốn hoặc không muốn mà để cho thiệt hại xảy ra.”
2. Trong các quy định trên, lỗi dân sự có những đặc điểm sau:
Về mặt khách quan, quy định trên đã quy định trường hợp người gây thiệt hại biết rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn làm, dù người đó muốn hay không nhưng có thái độ với mức độ cho phép. thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về lỗi cố ý của mình. Về mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi gây hại bao giờ cũng nhằm mục đích gây thiệt hại cho người khác và được thể hiện ở hai mức độ:
- Mong đợi thiệt hại xảy ra.
– Đừng mong đợi thiệt hại, mà hãy để thiệt hại xảy ra. Mức độ thể hiện ý chí - hành vi của một người cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người này biết rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện thì phải chịu trách nhiệm dân sự vì lý do đó. nguyên nhân của thiệt hại. Như vậy, người gây thiệt hại dù cố ý hay không có lỗi khi gây thiệt hại cho người khác thì cũng phải sửa chữa toàn bộ thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Việc người gây thiệt hại vô tình hay cố ý có lỗi trong việc gây thiệt hại không có nghĩa là mức bồi thường tăng lên hay giảm xuống tương ứng. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định, người gây thiệt hại ngoài hợp đồng có thể được miễn hoặc giảm số tiền phải bồi thường (do tòa án quyết định). Khi nhận thức về lỗi có nhiều ý kiến khác nhau, theo đó lỗi trong vấn đề trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cần được pháp luật quy định về hình thức và phạm vi. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng; lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng còn do suy đoán. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại hai quan điểm khác nhau về nhận thức lỗi, cần phải làm rõ vấn đề này để có sự thống nhất trong nhận thức lỗi và đó là do quy luật định trước hay do phỏng đoán.
Điều 309 “BLDS 2015” quy định về lỗi và hình thức lỗi trong trách nhiệm dân sự. Khoản 1 Điều 309 “BLDS 2015” quy định:
Người bỏ sót hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy, trong trách nhiệm dân sự nói chung, điều kiện có lỗi là chủ yếu để xác định trách nhiệm dân sự. Ngoài ra, tại khoản 2, điều 309 “BLDS 2015” quy định rất rõ về hình thức của lỗi, nó có ý nghĩa làm rõ khoản 1, đồng thời nội dung của nó cũng giải thích rõ thế nào là lỗi. . Căn cứ xác định lỗi và hình thức lỗi, theo chúng tôi, đã được pháp luật quy định từ trước chứ không thể suy đoán được. Bởi vì, lỗi:
“Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người biết rõ hành động của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn làm và dù muốn hoặc không muốn nhưng để cho thiệt hại xảy ra.” Và lỗi:
“Tội vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, trong khi lẽ ra phải biết hoặc có thể phải biết trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mà cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể đã được ngăn chặn”. Trên đây là một số cách xác định lỗi, nhưng chưa có quy định cụ thể để xác định lỗi vô ý lớn và lỗi vô ý nhỏ. Thảo luận về lỗi – điều kiện để xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là cần thiết. Bởi vì đối với cơ quan tư pháp, khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cần phải hiểu đầy đủ cơ sở lý luận về lỗi để áp dụng đúng các chuẩn mực pháp luật trong vấn đề trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, từ đó đưa ra các phán quyết chính xác, đúng pháp luật. các quyết định.
Nội dung bài viết:
Bình luận