Vô ý do cẩu thả là lỗi trong trường hợp “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó (Khoản 2 Điều 11 BLHS 2015 sửa đổi và bổ sung năm 2017).

1. Thế nào là lỗi cẩu thả?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là “Bộ luật Hình sự”) thì phạm tội do vô ý là trường hợp “Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình. .” có thể dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội, mặc dù những hậu quả đó phải và có thể thấy trước.
2. Đặc điểm của sơ suất do cẩu thả
Về lý: người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Về ý chí chủ quan: khi người phạm tội thực hiện hành vi phải “thấy trước và có thể thấy trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra.
Ở dạng vô ý cẩu thả, người phạm tội không nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Có hai trường hợp xảy ra khi người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi:
Trong trường hợp đầu tiên, người phạm tội không nhận thức được khả năng hậu quả của hành động của mình và không nhận thức được hậu quả xảy ra. Ví dụ, bảo vệ kéo dài dẫn đến trộm cắp tài sản của công ty. Trường hợp thứ hai, người phạm tội có thể nhận thức được khả năng xảy ra hậu quả do hành vi của mình thực hiện nhưng không nhận thức được hậu quả xảy ra. Ví dụ: Một người sang đường thiếu ý thức (không nhìn trước nhìn sau) khiến hai ô tô chạy ngược chiều nhau mà tránh người này, gây tai nạn làm chết hai người lái xe.
Tội vô ý do cẩu thả còn được xác định với điều kiện người phạm tội “phải thấy trước” và “có thể thấy trước” hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra. “Thấy trước” ở đây là quy định của pháp luật buộc họ phải nhận thấy hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội khi rơi vào tình huống này. “Dự đoán” có thể hiểu là tuổi tác, năng lực, trách nhiệm pháp lý, trình độ văn hóa, năng lực chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, kiến thức xã hội, v.v. của một người bình thường, người thật là người thật. Hành vi dự đoán hậu quả của nó.
3. Dấu hiệu mất tích do cẩu thả
Dựa vào định nghĩa, có thể rút ra hai dấu hiệu của sự lơ là:
Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước hậu quả xấu cho xã hội (hậu quả gây thiệt hại) mà hành vi của mình đã gây ra.
Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội phải thấy trước và có khả năng thấy trước hậu quả này.
Dấu hiệu thứ nhất là dấu hiệu phân biệt trường hợp lỗi vô ý do cẩu thả với các trường hợp lỗi khác. Dấu hiệu thứ hai là dấu hiệu phân biệt trường hợp lỗi vô ý do cẩu thả với trường hợp không có lỗi.
* Về dấu hiệu đầu tiên
Trong ba trường hợp có lỗi đã nghiên cứu, người phạm tội đều thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hại, tuy mức độ thấy trước có khác nhau. Trong trường hợp do vô ý cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hại do hành vi của mình gây ra. Việc người phạm tội không thể thấy trước hậu quả có hại do hành vi của mình gây ra có thể xảy ra trong các trường hợp sau đây:
- Người phạm tội không nhận thức được tính thực tế của hành vi của mình nên không nhận thức được khả năng hậu quả có hại do hành vi của mình gây ra. Ví dụ: Người điều dưỡng khi cấp phát nhầm thuốc cho bệnh nhân (do vội vàng) đã không nhận thức được hành vi của mình là sai nên không nhận thức được hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
- Người phạm tội nhận thức được thực tế hành vi của mình nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng hậu quả có hại của hành vi đó (hoàn toàn không tính đến khả năng xảy ra hậu quả). Ví dụ, một người vứt que diêm đang cháy dở sau khi châm một điếu thuốc ở cây xăng có thể không "dành thời gian" để nghĩ về khả năng xảy ra hỏa hoạn.
* Về dấu hiệu thứ hai
Người phạm tội trong trường hợp lỗi vô ý có nghĩa vụ thấy và có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hại do hành vi của mình gây ra. Điều này xuất phát từ sự tách biệt cụ thể giữa cá nhân và hoàn cảnh. Theo trách nhiệm đặc biệt của mình, người phạm tội buộc phải thấy trước hậu quả của thiệt hại và điều kiện đặc biệt không ngăn cản anh ta thấy trước hậu quả của thiệt hại. Người phạm tội không lường trước được hậu quả xấu do hành vi của mình gây ra chỉ vì sơ suất, thiếu thận trọng cần thiết. Lỗi của người phạm tội là anh ta đã hành động cẩu thả, rằng anh ta đã hành động thiếu thận trọng.
Xã hội đòi hỏi mọi người phải tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của cộng đồng và của người khác. Không những mỗi người không nên cố ý gây hậu quả nguy hại cho xã hội mà ngay tại đất nước mình cần có những biện pháp phòng ngừa cần thiết để tránh những hậu quả nguy hại đó. Yêu cầu khách quan này của xã hội đã trở thành quy luật của cuộc sống, có cái đã được luật hóa, có cái chưa, nhưng qua kinh nghiệm, ai cũng biết và nhận thấy mình có nghĩa vụ phải thực hiện. Các quy tắc này thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như quy tắc giao thông, quy tắc săn bắn, quy tắc phòng chống cháy nổ, quy tắc an toàn lao động... Người phạm tội do vô ý là người đã gây thiệt hại về mặt khách quan do vi phạm những quy tắc nhất định của đời sống xã hội. Về mặt chủ quan, người phạm tội do cẩu thả có nghĩa vụ tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Với trách nhiệm cụ thể và hoàn cảnh khách quan của mình, người phạm tội phải thấy rằng hành vi cẩu thả, không tuân thủ các quy tắc đã được xác lập sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Là người điều dưỡng cấp phát thuốc cho bệnh nhân, người phạm tội phải nhận thức được việc cấp phát thuốc không cẩn thận có thể dẫn đến việc cấp phát thuốc không đúng dẫn đến hậu quả là tính mạng, sức khỏe của người bệnh bị tổn hại; Với trách nhiệm là người sống trong cộng đồng, người phạm tội phải thấy rằng việc bất cẩn dùng lửa khi đun nấu có thể gây ra hỏa hoạn, gây nguy hại cho chính mình và hàng xóm xung quanh...
Tóm lại, biển báo bất cẩn "phải xem" có nghĩa là người vi phạm có nghĩa vụ tuân theo quy tắc mà họ đã vi phạm. Nghĩa vụ này phát sinh từ sự tách biệt cụ thể của người phạm tội. Vì nghĩa vụ này, họ buộc phải thấy rằng hành động của họ có thể gây hại.
Người phạm tội do lỗi cẩu thả không những “phải thấy” mà còn phải “thấy” hậu quả tai hại do hành vi của mình gây ra. “Thấy được” ở đây có nghĩa là người phạm tội có cả điều kiện khách quan (hoàn cảnh cụ thể bên ngoài) và điều kiện chủ quan (trình độ nhận thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm,…) để có thể thấy trước hành vi vi phạm của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hại. Những người vi phạm có đầy đủ điều kiện để tuân thủ quy tắc mà họ đã vi phạm. Trong ví dụ trên, các y tá hoàn toàn có đủ điều kiện để cẩn thận khi cấp phát, không có gì cản trở việc cấp phát thuốc chính xác của họ hoặc khiến họ cấp phát sai thuốc.
Khi xác định người vi phạm có lỗi do cẩu thả, cần lưu ý rằng trong một số hoạt động nghề nghiệp, việc hiểu các quy tắc an toàn đòi hỏi sự học tập có định hướng và kiên quyết nhất. Vì vậy, việc xác định đặc điểm chủ thể của người phạm tội về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là điều kiện cần thiết để xác định người phạm tội có phạm tội vô ý hay không.
So với lỗi cố ý thì lỗi vô ý là một sự phủ định chủ quan ít nghiêm trọng hơn.
Người phạm tội do vô ý đã lựa chọn và thực hiện hành vi vì không thấy trước hậu quả nguy hại của hành vi đó hoặc không thấy trước nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra nên cũng không nhận thức được hành vi sẽ được thực hiện. là một hành vi phạm tội. Họ không lựa chọn hành vi phạm tội như trường hợp lỗi cố ý. Do tính chất này, hành vi vô ý nói chung chỉ nguy hiểm cho xã hội hình sự khi chúng đã gây ra mức độ nguy hại nhất định. Chính vì vậy, trong pháp luật hình sự Việt Nam, các yếu tố cấu thành tội phạm có dấu hiệu của lỗi vô ý thường được cấu thành tội phạm vật chất. Trường hợp cấu thành tội phạm hình thức có dấu hiệu của lỗi vô ý là cá biệt.
Chẳng hạn, cấu thành tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước (khoản 1 Điều 338 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017); cấu thành tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự (khoản 1 điều 406 BLHS 2015 sửa đổi 2017).
4. Vô tình do quá tự tin.
4.1. Ý tưởng
Vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội khi hành động đã thấy rõ hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà thực hiện vì tin tưởng vào khả năng, sức lực, trình độ, kinh nghiệm cũng như sự xét đoán chủ quan về thực tế của mình. tin rằng có thể tránh được những hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu điều này xảy ra.
4.2.Dấu hiệu của vô ý phạm tội do quá tự tin
Về lý: Người phạm tội nhận thức được tính nguy hại của hành vi của mình đối với xã hội, tức là thấy trước được hậu quả xấu cho xã hội (hậu quả thiệt hại) mà hành vi của mình có thể gây ra.
Xét ở điểm này, người phạm tội do quá tự tin mà phạm tội vô ý và người phạm tội cố ý có điểm giống nhau là cả hai đều thấy trước hậu quả tai hại do hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên, sự giống nhau này chỉ là tương đối. Trong sự giống nhau này vẫn có một điểm khác biệt. Cụ thể: Người phạm tội do vô ý, do quá tự tin thấy trước hậu quả có thể xảy ra nhưng đồng thời cho rằng hậu quả đó không xảy ra (hoặc có thể tránh được). Như vậy, việc báo trước hậu quả thiệt hại ở đây thực chất chỉ là sự xem xét khả năng hậu quả thiệt hại có thể xảy ra và kết quả của việc người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả thiệt hại xảy ra. Đối với người phạm tội vô ý làm trái do quá tự tin thì khả năng hậu quả gây thiệt hại sẽ xảy ra và khả năng hậu quả gây thiệt hại không xảy ra đều là khả năng có thực, nhưng người phạm tội tin vào khả năng xảy ra hậu quả thiệt hại. xảy ra. Chính niềm tin này cho thấy người phạm tội chưa nhận thức đầy đủ tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi.
- Về ý chí: Người phạm tội không muốn hành vi của mình dẫn đến hậu quả có hại. Điều không mong muốn này khác với điều không mong muốn trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp. Nếu trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không muốn nhưng chấp nhận khả năng xảy ra hậu quả có hại trong quá trình lựa chọn và thực hiện hành vi thì trong trường hợp lỗi vô ý do quá tin tưởng, việc người phạm tội miễn cưỡng chấp nhận hậu quả của hậu quả có liên quan đến thực tế là người đó đã loại trừ khả năng xảy ra hậu quả có hại. Người phạm tội với lỗi vô ý do quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra (hoặc có thể tránh được). Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa trên những cơ sở nhất định như sự tự tin vào sự khéo léo, kiến thức, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật của mình hoặc những hoàn cảnh khách quan bên ngoài khác.
Ví dụ: Người lái xe tin rằng anh ta sẽ băng qua đường sắt trước khi tàu đến; người thợ săn tin rằng anh ta sẽ bắn trúng con vật, không để viên đạn găm vào mình... Niềm tin này của kẻ phạm tội là có cơ sở, nhưng những cơ sở này không chắc chắn. Người phạm tội đã không đánh giá đúng tình hình thực tế. Niềm tin của họ là một niềm tin thái quá vào thực tế. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp vô ý quá tin là tin quá đáng. Người phạm tội do lỗi vô ý do quá tự tin, cẩu thả trong việc đánh giá, lựa chọn phương hướng hành động nên đã gây thiệt hại cho xã hội.
5. Phân biệt lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do quá cẩu thả
Tiêu chí | Lỗi vô ý do quá tự tin | Lỗi vô ý do cẩu thả |
Về lý trí | Người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. | Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. |
Về ý chí | Người phạm tội nghĩ rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì cũng ngăn ngừa được. | Người phạm tội phải thấy trước hoặc có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra. |
Nội dung bài viết:
Bình luận