Lỗi cố ý trực tiếp là gì?

Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi thì “...nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, đã thấy trước hậu quả của hành vi này và mong  hậu quả xảy ra” ((Khoản 1 Điều 10 của BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017) Phân tích định nghĩa này có thể suy ra các dấu hiệu  của lỗi cố ý trực tiếp sau đây: 

lỗi cố ý trực tiếp là gì
lỗi cố ý trực tiếp là gì

 1. Quy tắc về nguyên nhân của lỗi cố ý trực tiếp 

 Người thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm mà hành vi của mình gây ra cho xã hội (được hiểu là tính chất gây ra (hoặc đe dọa gây ra) thiệt hại cho xã hội)(1) và thấy trước hậu quả nguy hại của hành vi này. 

 Nhận thức  tính chất nguy hại cho xã hội của một hành vi là sự nhận thức dựa trên cơ sở nhận thức về những hoàn cảnh khách quan tạo nên tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi đó. Những tình tiết đó có thể là mặt thực  của hành vi,  đặc điểm về khách thể của tội phạm,  điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội... 

 Trong các tội có cấu thành tội phạm  vật chất thì hậu quả nguy hại là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm, do đó người thực hiện lỗi cố ý trực tiếp không chỉ nhận thức được tác hại mà hành vi của mình gây ra cho xã hội mà khi thực hiện hành vi cũng thấy trước  hậu quả có hại của hành vi. 

 Dự đoán hậu quả có hại của một hành vi là sự nhận thức  trước, là dự kiến ​​của tác giả về hậu quả này. Người phạm tội có thể mong đợi hành vi tất yếu dẫn đến nguy hại hoặc hành vi sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại. 

 Trong các tội  cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả tác hại không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nên vấn đề có quy định hậu quả tác hại không  đặt ra khi xem xét mục đích của tác giả lỗi cố ý trực tiếp.  Nếu hậu quả tác hại được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt trong cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi  định tội thì cũng cần xác định người phạm tội  trước hậu quả thiệt hại để khẳng định là người phạm tội. phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hậu quả thiệt hại xảy ra. 

 Nhận thức được tính có hại của một hành vi đối với xã hội  và thấy trước hậu quả có hại của hành vi đó là hai nội dung có quan hệ mật thiết với nhau của yếu tố lý tính. Việc thấy trước hậu quả có hại của hành vi là kết quả và  sự cụ thể hóa nhận thức về tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi. Ngược lại, nhận thức được tính nguy hại cho xã hội của hành vi là cơ sở để dự đoán hậu quả nguy hại của hành vi. 

 

 

  2. Quy định về di chúc đối với lỗi cố ý trực tiếp 

 Những người vi phạm  mong đợi thiệt hại xảy ra. 

 Điều này có nghĩa là hậu quả phá hoại của hành vi dự kiến ​​của người phạm tội là hoàn toàn phù hợp với mục đích - phù hợp với  mong muốn của người đó. Ở đây, sở dĩ không đặt vấn đề mong muốn hay không mong muốn hành vi  gây nguy hại cho xã hội là khi chủ thể nhận thức được bản chất của hành vi đó mà vẫn thực hiện thì điều này đã có nghĩa là chủ thể đã muốn thực hiện hành vi đó. hành vi. 

 Trong các tội có cấu thành tội phạm vật chất thì hậu quả tác hại được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm, do đó cần xác minh ý chí của người phạm tội đối với hậu quả thiệt hại có thể thấy trước. có thể khẳng định có lỗi cố ý trực tiếp hay không. 

 Trong các tội  cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả thiệt hại không được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm nên việc xác định ý chí đối với hậu quả thiệt hại là không cố định. Để xác định người phạm tội có lỗi  trực tiếp hay không, chỉ cần xác định người đó nhận thức được tác hại của hành vi mà vẫn thực hiện. 

 Nếu hậu quả nguy hại cho xã hội được quy định là dấu hiệu của hình phạt thực sự định khung  tội phạm tăng nặng hoặc được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi  định tội thì việc chứng minh lỗi cố ý phải chịu trách nhiệm trực tiếp về hậu quả thiệt hại còn phải xác định sự tự nguyện của người phạm tội đối với hậu quả. thiệt hại.  

 

 

 3. Phân biệt  cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp và  cẩu thả

Tiêu chí Lỗi cố ý trực tiếp Lỗi cố ý gián tiếp Lỗi vô ý do cẩu thả
Căn cứ pháp lý Khoản 1 Điều 10 Bộ luật hình sự năm 2015 (bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) Khoản 2 Điều 10 BLHS 2015 Khoản 2 Điều 11 BLHS 2015
Khái niệm Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra

 

Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Về mặt lý trí Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Phải thấy trước hậu quả nhưng lại không thấy trước được hậu quả đó
Về mặt ý chí Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra Người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra
Nguyên nhân gây ra hậu quả Có sự cố ý Có sự cố ý Do sự cẩu thả
Trách nhiệm hình sự Cao nhất Cao hơn Thấp hơn
Ví dụ C và D xảy ra mâu thuẩn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra. B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp A là kế toán doanh nghiệp, khi nhập dữ liệu, A đã sơ ý bỏ sót một số 0 trong số tiền cần chuyển cho đối tác, hành vi này của A đã khiến công ty thiệt hại, trong trường hợp này, A là kế toán và phải biết được chỉ một hành vi sơ xuất cũng sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn.

4. Thế nào là lỗi cố ý gián tiếp? 

Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của một người khi thực hiện một hành vi “...nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không  muốn nhưng  có ý thức để  hậu quả xảy ra ." 

 So sánh lỗi cố ý trực tiếp với lỗi cố ý gián tiếp cho thấy, trong cả hai trường hợp  lỗi cố ý, tâm thế của người có lỗi về  bản chất là giống nhau. Sự khác biệt giữa hai loại lỗi này chủ yếu nằm ở yếu tố ý chí. Đó là “mong muốn…” hoặc “mang lại một cách có ý thức…”. 

 Nếu trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn hậu quả thiệt hại xảy ra thì trong trường hợp  lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn mà cố ý  để  hậu quả thiệt hại xảy ra. Đối với người có lỗi cố ý gián tiếp thì hậu quả thiệt hại xảy ra hoặc không xảy ra đều vô nghĩa, không xảy ra  và nếu xảy ra thì cũng chấp nhận được. 

 Ví dụ: Trong cơn tức giận, A đã dùng dao đâm B bừa bãi khiến B tử vong. Khi đâm, A nhận thức được hành vi đâm của mình là nguy hiểm, có thể gây chết người. Nhưng vì tức giận nên hắn đâm thế nào cũng được, muốn  thế nào cũng được. A không  muốn giết B, nhưng nếu B chết thì anh ta chấp nhận.  

 Với sự khác biệt về yếu tố ý chí như vậy, buộc yếu tố lý trí của người phạm tội trong hai trường hợp  lỗi cố ý mặc dù về cơ bản  giống nhau nhưng cũng phải có những điểm khác biệt. Trong trường hợp  lỗi cố ý trực tiếp, việc dự kiến ​​hậu quả có hại của người phạm tội có thể là dự kiến ​​hậu quả tất yếu hoặc hậu quả  có thể xảy ra. Nhưng đối với lỗi cố ý gián tiếp thì hậu quả có hại của người phạm tội thấy trước chỉ có thể là thấy trước hậu quả  có thể xảy ra. Không thể có trường hợp người phạm tội đã thấy trước hậu quả tất yếu phải xảy ra nhưng “cho phép…”, không mong muốn hậu quả đó khi thực hiện hành vi. Thái độ tỉnh táo để  cho  thiệt hại xảy ra chỉ có thể thực hiện được nếu thấy trước cả hai khả năng - khả năng xảy ra hậu quả thiệt hại  và khả năng hậu quả thiệt hại không xảy ra. 

 

 

  5. Dấu hiệu của lỗi cố ý gián tiếp 

 - Về lý: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình gây nguy hại cho xã hội, thấy trước được hành vi đó có thể dẫn đến hậu quả nguy hại.  - Về ý chí: Người phạm tội không  muốn hậu quả có hại xảy ra. Hậu quả thiệt hại do người phạm tội thấy trước là không đúng với mục đích của mình. Người phạm tội thực hiện hành vi  gây nguy hại cho xã hội vì mục đích khác. Để đạt được mục đích này, người phạm tội chấp nhận hậu quả thiệt hại do hành vi của mình  gây ra. Người phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp mặc dù không  muốn nhưng họ đã có ý thức thỏa hiệp với hậu quả tai hại do hành vi của mình gây ra mà họ thấy trước được. Tóm lại, dấu hiệu quan trọng nhất của lỗi cố ý gián tiếp là dấu hiệu “đã để  hậu quả xảy ra một cách có ý thức”. Dấu hiệu này có nghĩa là chủ thể “chấp nhận hậu quả”. 

 Trong BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung  2017, lỗi cố ý được phân thành hai loại: lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp như đã trình bày. Trong nghiên cứu,  lỗi cố ý cũng có thể được phân loại như sau: 

 

 - Tuỳ theo thời điểm hình thành, có thể phân biệt hai loại lỗi cố ý: lỗi cố ý  và lỗi vô ý. 

 Cố ý trực tiếp là việc người phạm tội đã  suy nghĩ, tính toán trước khi thực hiện hành vi  gây nguy hại cho xã hội.  Cố ý bất ngờ là khi người phạm tội vừa có ý định phạm tội và thực hiện ngay ý định đó, chưa kịp suy nghĩ kỹ. 

 - Tuỳ theo mức độ hình dung cụ thể  về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, có thể phân biệt hai loại lỗi cố ý: lỗi cố ý xác định và lỗi cố ý không xác định. 

  Cố ý xác định là trường hợp người phạm tội tưởng tượng rõ ràng, chính xác về hậu quả nguy hại mà hành vi của mình sẽ gây ra.  

 Ví dụ: Người phạm tội trộm cắp tài sản có ý định cụ thể là lấy trộm  tài sản  và đã thực hiện. 

 Cố ý không xác định là trường hợp người phạm tội mặc dù đã phải gánh chịu hậu quả thiệt hại nhưng chưa hình dung được  hậu quả cụ thể. Ví dụ: Khi dùng gậy gây thương tích cho người khác, người phạm tội chưa hình dung hết tính chất nghiêm trọng của vết thương.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo