Lỗi cố ý là gì? Đặc điểm của lỗi và cách phân loại lỗi cố ý

Lỗi cố ý là một trong hai loại lỗi theo luật hình sự Việt Nam. Bài viết phân tích, làm rõ các quy định pháp luật về yếu tố lỗi và các vấn đề pháp lý liên quan đến việc xác định lỗi, cụ thể: 

 Lỗi cố ý là một trong hai loại lỗi theo luật hình sự Việt Nam. Bài viết phân tích, làm rõ các quy định pháp luật về yếu tố lỗi và các vấn đề pháp lý liên quan đến việc xác định lỗi, cụ thể: 

lỗi cố ý
lỗi cố ý

1. Khái niệm lỗi 

 Lỗi là lỗi không nên, không nên trong hành vi, hành động trong cuộc sống hàng ngày, theo đó, lỗi được đồng nhất với hành vi, còn trong quan hệ pháp luật, lỗi được xem xét dưới góc độ trạng thái tâm lý. 

  Theo các tài liệu pháp luật, lỗi được định nghĩa là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi có  hại cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, biểu hiện dưới các hình thức: vô ý và cố ý. 

 Về phương diện hình thức có lỗi, mối quan hệ tâm lý ở đây bao gồm yếu tố lý trí và ý chí. Hai yếu tố này thể hiện khả năng  nhận thức và khả năng  điều khiển hành vi của con người, là yếu tố tâm lý tất yếu của mọi hành vi của con người. 

  Nhìn chung, định nghĩa này  phản ánh những đặc điểm chung nhất  của yếu tố lỗi trong hệ thống pháp luật Việt Nam. 

 2. Các mẫu lỗi 

 - Lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi này và mong muốn hậu quả đó xảy ra.  

 - Lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả có thể xảy ra của hành vi đó, mặc dù không  muốn nhưng luôn có cảm giác buông xuôi cho hậu quả xảy ra. 

 

 - Lỗi vô ý do tự tin là khi người phạm tội  thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể tránh được.  

 - Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước việc mình làm có thể gây  hậu quả xấu cho xã hội, mặc dù hậu quả đó phải thấy trước và có thể thấy trước. 

 

 

 3. Đặc điểm của lỗi 

 Một hành vi được coi là sai trái khi thỏa mãn hai điều kiện sau: 

 (i) Hành vi phạm tội trái pháp luật: là  hành vi được thực hiện trái với quy định của pháp luật, xâm phạm đến đối tượng được luật hình sự bảo vệ.  (ii) Hành vi đó là kết quả của sự  lựa chọn, quyết định của một người  khi họ có khả năng, điều kiện để lựa chọn, quyết định cách xử sự khác không trái với quy định của pháp luật hình sự.  Để xác định  người thực hiện hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho xã hội có lỗi trong việc thực hiện hành vi này hay không, chúng ta phải xác định  tội danh. Lỗi là  yếu tố quan trọng trong việc xác định tội phạm, nó là yếu tố bên trong và là nguyên nhân chủ quan của tội phạm. Ví dụ: Xuất phát từ tranh chấp nhà đất, A  đánh B gây thương tích với tỷ lệ cao. Tỷ lệ thương tích trên 20%. Trong trường hợp này, hành vi A đánh B  là hành vi sai trái, nó xuất phát từ yếu tố tâm lý bên trong  A làm cho A mất kiểm soát và khiến A thực hiện hành vi  nguy hiểm cho xã hội mà đối tượng trực tiếp ở đây là quyền con người được bảo vệ. nhà nước thông qua  luật hình sự. Đó là kết quả của việc A lựa chọn đưa ra quyết định  trong khi A có thể đưa ra  lựa chọn khác không trái  pháp luật.  Chủ thể của một hành vi bị coi là có lỗi khi có đủ hai điều kiện: đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không bị mất năng lực hành vi theo quy định của pháp luật. 

  4. Khái niệm về lỗi cố ý 

 Lỗi cố ý là lỗi mà chủ thể có ý thức lựa chọn cách thực hiện tội phạm  mặc dù họ có đủ điều kiện để lựa chọn một hành vi khác không nguy hiểm cho xã hội.  

 Lỗi cố ý là một trong hai loại lỗi theo luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi cố ý càng nguy hiểm. Loại lỗi này cần có các dấu hiệu sau: 

 

 1) Hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện là hành vi có tính chất tội phạm  (hành vi có  dấu hiệu khách quan cần cấu thành tội phạm); 

 

 2) Chủ thể nhận thức được tính chất tội phạm  của hành vi đã thực hiện; 

 

 3) Chủ thể đã lựa chọn hành vi  phạm tội này khi có điều kiện lựa chọn hành vi khác.  

 Lỗi cố ý là trường hợp một người biết rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn làm và mong muốn hoặc miễn cưỡng cho phép thiệt hại xảy ra theo quy định tại Điều 364 Bộ luật tố tụng dân sự. 

  Theo Điều 10 BLHS 2015 quy định về tội cố ý phạm tội như sau: 

 

  Cố ý phạm tội là phạm tội trong các trường hợp sau đây: 

 

  1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; 

 

  1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, dù không  muốn nhưng họ vẫn có ý thức tốt để  cho hậu quả xảy ra. 

 

 

 

 5. Phân loại lỗi cố ý 

 Tại điều 9  BLHS, cố ý phạm tội bao gồm hai trường hợp: 

 

 

 

 5.1 Lỗi cố ý trực tiếp 

 Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. Lường trước hậu quả của hành vi này và mong muốn hậu quả xảy ra. Để được coi là có lỗi  trực tiếp, người phạm tội phải hội đủ ba điều kiện: 

 

 (1) Nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (ví dụ: biết việc cầm súng đâm  người khác sẽ gây nguy hiểm cho người bị đâm, phóng nhanh vượt ẩu sẽ gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông khác). ). 

 (2) Dự đoán hậu quả của hành vi này (ví dụ: biết rằng ai đó sẽ bị đâm) 

 

 (3) Mong muốn hậu quả xảy ra (ví dụ: mong muốn người bị đâm chết hoặc bị thương, v.v.). 5.2 Lỗi Cố Ý Gián Tiếp 

 Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; lường trước hậu quả có thể xảy ra của hành vi đó; Dù không mong muốn nhưng luôn ý thức được việc để  hậu quả xảy ra. Yếu tố lỗi cố ý gián tiếp khác với yếu tố lỗi cố ý trực tiếp ở điều kiện thứ ba. Dù không  muốn nhưng họ vẫn có lý để mặc cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: Anh A thấy B bị tai nạn sắp chết, dù không  muốn B chết nhưng A vẫn làm ngơ  bỏ đi vì  bận  hẹn hò với bạn bè. 

  Ngoài cách phân chia  lỗi cố ý một cách hình thức như trên, loại lỗi này còn có thể  chia thành lỗi cố ý xác định và lỗi cố ý không xác định cũng như lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý không xác định. Trong đó, cố ý xác định được hiểu là trường hợp hậu quả của tội phạm được xác định cụ thể trong lương tâm của người phạm tội. Ví dụ: Lỗi trong trường hợp mất trộm một chiếc xe đạp cụ thể được xác định là lỗi cố ý. Cố ý không xác định cụ thể là trường hợp trong lương tâm của người phạm tội, mức độ của hậu quả không được xác định cụ thể. Ví dụ: Lỗi  lấy trộm  túi xách mà không biết bên trong  có gì là lỗi cố ý không xác định. Cố ý  là trường hợp  chủ thể đã có. Hãy suy nghĩ hai lần trước khi  phạm tội. Cố ý không có kế hoạch trước là trường hợp  chủ thể vừa có ý định phạm tội đã thực hiện ngay ý định đó, chưa  có thời gian xem xét kỹ. 

 

 

 6. Phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý do quá tự tin vào tội phạm 

 6.1 Lỗi Cố Ý Gián Tiếp 

 Theo quy định của BLHS, lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người  thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó. xảy ra, dù không nằm trong kế hoạch nhưng anh luôn ý thức được việc để  hậu quả xảy ra.  Lỗi cố ý gián tiếp có các đặc điểm sau: 

 

 - Về lý: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm  của hành vi của mình và thấy trước được hành vi đó có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.  - Về ý chí: Người phạm tội không  muốn hậu quả xảy ra. Điều này có nghĩa là hậu quả  không tương thích với mục đích phạm tội. Tuy nhiên, để đạt được mục đích này, người phạm tội chấp nhận hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. 

  Ví dụ: Hai ngày trước, gia đình ông Nguyễn Văn A trong lúc làm mái nhà đã làm rơi một tấm ván gỗ xuống  đường dẫn vào nhà ông Hoàng Văn B. Ông này sơ ý bị một miếng gỗ rơi trúng đầu dẫn đến tử vong. . Mọi người. Dù biết nhà gần đường, có nhiều người qua lại nhưng ông A đã không có biện pháp ngăn chặn dẫn đến việc ông B tử vong. Hành vi của anh A là hành vi  gián tiếp để  hậu quả xảy ra mặc dù  biết trước. 

 

 

  6.2 Lỗi cố ý do quá tự tin 

 Lỗi vô ý do quá tự tin là lỗi của người  thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng thấy trước hành vi của mình có thể dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội mà cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc không thể tránh được.  Lỗi không cố ý do quá tự tin có những đặc điểm sau: 

 

 - Về lý: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm  của hành vi, thể hiện ở chỗ họ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra. 

  - Về ý chí: Người phạm tội không  muốn hành động của mình dẫn đến hậu quả nguy hại cho xã hội. Sự không mong muốn này dẫn đến việc người  phạm tội tin rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được dựa trên sự suy nghĩ, phán đoán trước khi thực hiện hành vi. Tuy nhiên, hậu quả bất lợi cho xã hội đã xảy ra vượt quá mong đợi của họ.  

 Ví dụ: Khi tiến hành phẫu thuật cho một bệnh nhân, bác sĩ Nguyễn Văn X vì quá tự tin vào khả năng của mình nên cho rằng đây là một ca dễ dàng, ông đã tự mình thực hiện mà không mời các chuyên gia khác đến họp trước khi mổ. bệnh nhân  tử vong do mất máu quá nhiều. Hành vi của bác sĩ X là vô ý làm bệnh nhân tử vong là do  tin tưởng, mặc dù không  muốn hậu quả xảy ra nhưng nghĩ có thể ngăn cản nên đã chủ quan.  

 Như vậy: Lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý do quá tự tin giống nhau ở chỗ, người thực hiện hành vi gây nguy hại cho xã hội đều nhận thức được hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra và  không mong muốn hậu quả đó xảy ra.  

 Lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý do quá tự tin có  điểm khác nhau cơ bản, đó là: Ở lỗi cố ý gián tiếp, người lý giải chấp nhận khả năng xảy ra hậu quả  khi lựa chọn và thực hiện hành vi. Trong trường hợp lỗi vô ý do quá tự tin, người giải thích loại trừ khả năng hậu quả sẽ xảy ra và cho rằng hậu quả đó không xảy ra.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo