
1. Logic là gì?
Logic học trong tiếng Anh là Logics. Thuật ngữ logic được sử dụng với hai ý nghĩa chính: - Lôgic khách quan, dùng để chỉ quy luật cụ thể là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng; hay mối liên hệ bản chất của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Các ngành khoa học cụ thể (như vật lý, hóa học, triết học) chủ yếu nghiên cứu logic khách quan - tìm ra các quy luật tự nhiên giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
- Lôgic chủ quan, dùng để chỉ mối liên hệ tất yếu, thường xuyên giữa các tư tưởng của con người, với tư cách là sự phản ánh chân thực hiện thực khách quan. Logic chủ quan được nghiên cứu bởi các môn logic và toán học. Khoa học nghiên cứu logic chủ quan và sự thống trị giữa logic khách quan và logic chủ quan là logic học. Do đó logic có thể được định nghĩa như sau: Logic học là khoa học nghiên cứu các quy luật và cấu trúc chính xác của tư duy.
2. Sự phát triển và hình thành môn logic học
Ở phương Đông, logic bắt nguồn từ Ấn Độ, theo nghiên cứu được phát hiện từ thời cổ đại, có niên đại hàng nghìn năm. Ở phương Tây, logic có từ thời cổ đại khi được nghiên cứu giữa những năm (560 và 420 trước Công nguyên). Từ cuối thế kỷ 19, đã có một nhà toán học nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến toán học, nghiên cứu các lập luận, các khái niệm về phương pháp, v.v. , các phép chứng minh logic trong các công trình lớn thời kỳ này của một số nhà toán học nổi tiếng như (J. Venn người Anh). Logic học còn được gọi là logic truyền thống đã được một nhà khoa học khai sáng và logic gắn liền với các biểu tượng. Có thể bạn chưa biết rằng logic hình thức chỉ là nghiên cứu các vấn đề hình thức bằng tư duy trừu tượng về các khái niệm và phán đoán trong cuộc sống hàng ngày của mọi người, các vấn đề liên quan đến đảng phái. Logic cũng được nghiên cứu từ trên xuống dưới từ logic truyền thống đến logic ngày nay như hôm nay chúng ta nghiên cứu logic là gì.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu logic đối tượng logic
Logic học nghiên cứu các hình thức logic của tư duy, mô tả các quy luật, quy luật của quá trình tư duy. Qua đó khẳng định tính đúng đắn của suy nghĩ. Tuân theo các quy tắc, quy luật là điều kiện cần thiết để đạt tới chân lý trong quá trình tư duy về hiện thực. Phương pháp nghiên cứu logic Đối tượng của logic học là nghiên cứu các hình thức, quy luật và quy tắc đúng đắn của tư duy. Để hiểu đầy đủ các hình thức, quy luật và quy luật của tư duy, cần phải phân tích cấu trúc logic của tư duy thể hiện trong đó, tức là chỉ ra các bộ phận, các yếu tố cấu thành và chỉ ra đúng các kiểu liên kết của tư duy. Việc chia một sự vật phức tạp thành các mặt nên dùng các ký hiệu để chỉ các thành phần, phần tử và các kiểu liên kết. Biểu trưng hóa một quá trình tư duy phức tạp, từ đó làm rõ cấu trúc của nó, gọi là hình thức hóa cấu trúc logic của tư duy.
4. Ý nghĩa và vai trò của logic
Tư duy của con người bao giờ cũng diễn ra dưới những hình thức nhất định và phải tuân theo các quy luật logic, cho dù người tư duy có biết hay không. Nhưng không phải bẩm sinh mà con người đã biết những hình thức này và những quy luật này. Việc biết và quan trọng hơn là sử dụng các dạng và định luật này một cách chính xác và sáng tạo đòi hỏi phải nghiên cứu và vận dụng không ngừng. Con đường ngắn nhất để làm điều này là học logic. Học logic giúp rèn luyện, củng cố và hoàn thiện tư duy logic. Nó giúp hình thành thói quen lập luận theo quy tắc, sử dụng đúng các khái niệm, phạm trù, tránh sai sót trong suy nghĩ của bản thân và nhanh chóng phát hiện ra sai sót trong lập luận của người khác. Việc nghiên cứu logic mất tương đối ít thời gian và có thể nâng cao trình độ tư duy. Nhà logic học nổi tiếng S. Mill nói: “Khi đã thấy rõ lý thuyết suy diễn đơn giản như thế nào, thời gian cần thiết để có được kiến thức đầy đủ về các nguyên tắc và quy tắc cơ bản của nó và thậm chí với kinh nghiệm đáng kể trong việc sử dụng chúng, tôi thấy không có lý do gì để biện minh cho những người muốn hoạt động trí tuệ hiệu quả mà không cần nghiên cứu logic. Logic là người theo đuổi tuyệt vời của suy nghĩ bối rối và u ám; nó xua tan màn sương mù bao phủ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến chúng ta tưởng rằng mình hiểu đối tượng trong khi thực ra không phải vậy. Tôi tin rằng trong nền giáo dục hiện đại, không gì có thể thuận lợi hơn cho việc hình thành những ý tưởng đúng đắn, những ý tưởng sử dụng nghĩa của từ một cách chính xác và chống lại những thuật ngữ sai nhiều bằng logic." Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, logic ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Mọi người sử dụng logic để giúp giải quyết các tình huống khó xử trong toán học, điều khiển học, khoa học máy tính, v.v. Người ta dùng logic vị từ để tạo ngôn ngữ lập trình cho trí tuệ nhân tạo. Ứng dụng logic mờ để phát triển công nghệ mờ,... Như vậy, việc nghiên cứu logic học có các ý nghĩa sau: Logic học được nghiên cứu để trực tiếp phát triển tư duy của con người, hướng con người đến cái mới. Tất nhiên, không chỉ những người không học logic mới không có suy nghĩ chính xác nhất, vì suy nghĩ đúng đắn có thể được hình thành từ kinh nghiệm thực tế của con người trong cuộc sống, thông qua tất cả các quá trình như giao tiếp, ứng xử hay học tập. Nhưng đây không phải là suy nghĩ có ý thức nhất. Do đó, chúng ta cũng có thể suy nghĩ sai và thiếu chính xác. Do đó, logic này vẫn cần thiết trong cuộc sống ngày nay. Nhờ logic mà nâng cao trình độ tư duy, để có thể tư duy khoa học một cách chính xác và có ý thức nhất trong cuộc sống.
5. Logic hình thức và logic biện chứng
Giống như tất cả các ngành khoa học khác, logic có một lịch sử chia nhỏ và hợp nhất. Hôm nay chúng ta thấy hai chủ đề logic: Một là logic hình thức Thứ hai là logic biện chứng. Hai lôgic học này nghiên cứu các quy luật, hình thức và phương pháp của tư duy, nhưng mỗi loại nghiên cứu những khía cạnh khác nhau với những góc độ và phương pháp khác nhau. Trong logic của Hegel, có hai khái niệm: sự hiểu biết và lý trí. Hiểu và lý đều là tư duy trừu tượng, nhưng phương pháp tư duy trí tuệ chưa đạt đến trình độ biện chứng. Hegel dùng khái niệm tư duy duy lý để chỉ một phương pháp tư duy đạt đến trình độ tư duy biện chứng. Trong “Những ghi chép triết học”, Lênin rất quan tâm đến sự khác biệt giữa hai khái niệm hiểu biết và lý trí ở Hegel. Hơn nữa, Lênin cũng công nhận cách hiểu này.
Các quy luật cơ bản của logic hình thức truyền thống do Aristotle, nhà triết học Hy Lạp cổ đại, phát biểu, bao gồm quy luật đồng nhất, quy luật phi mâu thuẫn và quy luật loại trừ bên thứ ba. Các quy luật này đòi hỏi phải suy tư để xác định không mâu thuẫn, không lẫn lộn giữa cái này và cái kia. Sau thế kỷ 19, logic toán học là một nhánh của logic hình thức hiện đại bắt nguồn từ logic toán học, sử dụng các phương pháp toán học, ký hiệu chuyên ngành và tính toán logic để nghiên cứu tư tưởng. Các ký hiệu logic toán học giúp ngôn ngữ diễn đạt chính xác các suy luận phức tạp, có tác dụng thúc đẩy to lớn khả năng tư duy của con người và sự phát triển của khoa học hiện đại. Logic biện chứng là một khoa học logic khác với logic hình thức, nó dựa trên phép biện chứng của tư duy và tồn tại, tức là logic chỉ ra bản chất năng động của tư duy một cách sâu sắc thông qua những mâu thuẫn bên trong của các hình thức tư duy. Ăng-ghen chỉ rõ: "phép biện chứng xuyên qua chân trời chật hẹp của logic hình thức, đồng thời chứa đựng những mầm mống của một thế giới quan rộng lớn hơn.
Trong toán học cũng có mối quan hệ như vậy. Toán sơ đẳng - tức là toán về hằng số, tiến bộ" , ít nhất là trong toàn bộ, trong giới hạn của logic hình thức và toán học về số biến, một phần trong số đó rất quan trọng. Đặc biệt khi tính toán các đại lượng vô cùng nhỏ , về cơ bản là áp dụng phép biện chứng cho các quan hệ toán học. Engels đã so sánh mối quan hệ giữa logic hình thức và logic biện chứng với mối quan hệ giữa toán học cơ bản và toán học cao cấp. Sự khác biệt giữa toán cao cấp (toán về các biến) và toán cơ bản (toán về hằng số) là không có hằng số cố định. Có thể thấy logic hình thức là khoa học về tư duy được xây dựng trên cơ sở đồng nhất trừu tượng của các phạm trù cố định, còn logic biện chứng là khoa học về tư duy được xây dựng trên cơ sở đồng nhất cụ thể của các phạm trù cố định trong phạm vi biến đổi. Mối quan hệ giữa logic biện chứng và logic hình thức được thể hiện như sau: Logic hình thức và logic biện chứng đều nghiên cứu các quy luật, hình thức và cách thức tư duy nhưng với những phương pháp khác nhau.
Đúng như tên gọi, logic hình thức có nhiệm vụ nghiên cứu tư duy về mặt hình thức mà không nghiên cứu nội dung cụ thể được phản ánh trong tư tưởng, không nghiên cứu quá trình sản sinh, hình thành và phát triển của tư duy mà chỉ phân tích, nghiên cứu tư duy trong trạng thái vốn có của nó. . . Vì vậy, logic hình thức chủ yếu là tổ chức và hiệu chỉnh các khái niệm, phán đoán và lập luận về mặt hình thức. Lôgic biện chứng nghiên cứu tư duy trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức, xem xét tư duy trong quá trình phát triển, khái quát lôgíc quá trình nhận thức của con người, đồng thời chỉ ra nội dung biện chứng của các hình thái tư duy và mối quan hệ biện chứng giữa các hình thái tư duy. Cả logic hình thức và logic biện chứng đều phản ánh thế giới khách quan nhưng với những góc độ và thứ bậc khác nhau. Các lý thuyết và phương pháp của logic hình thức đều dựa trên thực tế khách quan về tính tĩnh tương đối và ranh giới xác định của sự vật. Khi nhận thức của con người ở trạng thái ổn định, không quan tâm đến mối quan hệ giữa các sự vật thì logic hình thức với những phạm trù cố định là cần thiết và hiệu quả, nhưng nếu tuyệt đối hóa vai trò của logic hình thức sẽ dẫn đến sai lầm. Logic biện chứng vượt ra khỏi phạm vi logic hình thức, nó không chỉ phản ánh sự khác nhau giữa các sự vật mà còn phải phản ánh mối liên hệ giữa chúng, không chỉ ở trạng thái tĩnh lặng của sự vật mà còn ở sự phản ánh, phản ánh sự vận động của sự vật.
Lôgíc biện chứng "không còn biết đến những đường lối khó và nhanh, đến cái "hoặc... hoặc" có thể áp dụng phổ biến và vô điều kiện, phép biện chứng lật đổ những khác biệt siêu hình cố định của sự tương hỗ, phép biện chứng thừa nhận, nếu cần, đứng về phía " hoặc" .. . hoặc là "có" cả cái này và cái kia "do đó, và làm trung gian giữa các mặt đối lập". Để tư duy sâu sắc, toàn diện về sự vật, tư duy con người không thể chỉ vận dụng các quy luật logic hình thức dựa trên các phạm trù cố định mà phải vận dụng các phạm trù khả biến, quy luật logic biện chứng một cách có ý thức. Logic hình thức và logic biện chứng bổ sung cho nhau. Ở một khía cạnh nào đó, logic biện chứng ưu việt hơn logic hình thức, nhưng không loại trừ logic hình thức, các quy luật và quy luật của logic hình thức là những quy luật cơ bản mà mọi tư duy đúng đắn, trong đó có phép biện chứng phải tuân theo, là điều kiện cần thiết để nhận thức thực tế. Trong quá trình nhận thức không thể vi phạm các quy luật logic hình thức dẫn đến mâu thuẫn logic làm cho tư duy trở nên rối loạn. Mâu thuẫn logic ở đây là do lỗi chủ quan của con người trong quá trình nhận thức chứ không phải mâu thuẫn của hiện thực khách quan. Để nhận ra mâu thuẫn trong thực tế, trước hết phải tuân theo các quy luật logic hình thức và loại trừ mâu thuẫn logic. trên cơ sở đó, việc vận dụng phương pháp biện chứng của tư duy mới đạt được phép biện chứng khách quan, tìm ra mâu thuẫn của bản thân sự vật. Mối quan hệ giữa logic hiện tượng học và logic hình thức như đã trình bày ở trên đã chứng minh rằng logic hình thức trong những điều kiện nhất định có thể bảo đảm tính đúng đắn của tư tưởng, nhưng trong quá trình phát triển rộng hơn muốn đạt được con đường khoa học cũng phải tuân theo các quy luật của logic biện chứng.
Lênin đã nêu những yêu cầu cơ bản của logic biện chứng như sau: “Logic biện chứng buộc chúng ta phải đi xa hơn nữa. Để thực sự hiểu sự vật, bạn phải nhìn rộng ra và nghiên cứu tất cả các khía cạnh, tất cả các mối liên hệ và “mối quan hệ gián tiếp” của sự vật. Chúng ta không thể làm một cách trọn vẹn, nhưng cần phải nhìn mọi phía sẽ tránh cho chúng ta những sai lầm và thiếu linh hoạt. Đây là điểm đầu tiên. Điểm thứ hai là: logic biện chứng yêu cầu xem xét sự vật trong quá trình phát triển của chúng, trong sự “vận động của cái tôi” (như Hegel đã nói), trong sự biến đổi của nó... Điểm thứ ba là: toàn bộ hoạt động của con người. - thực tiễn này vừa là tiêu chí của chân lý, vừa là yếu tố quyết định thực tiễn mối quan hệ giữa sự vật và nhu cầu của con người - phải được đưa vào định nghĩa "đầy đủ" về sự vật. Điểm thứ tư là như sau: lôgic biện chứng dạy rằng “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý bao giờ cũng cụ thể”. Những lời căn dặn của Lênin đã giúp chúng ta hiểu sâu sắc và toàn diện lôgic biện chứng. Lôgic biện chứng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoạt động thực tiễn và tư duy hiện đại, nó cung cấp cho chúng ta phương pháp phân tích và tổng hợp ở trình độ cao trong sự vận động của tư duy.
Nội dung bài viết:
Bình luận