1. Khái niệm Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Ngày 17/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 601/QĐ-TTg thành lập Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (tên thương mại tiếng Anh: Small and Medium Enterprise Development Fund, viết tắt là SMEDF) được thành lập nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước, phù hợp với mục tiêu hoạt động của Quỹ là nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa, giải quyết việc làm cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ là tổ chức tài chính Nhà nước, chịu sự giám sát trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quỹ có tư cách pháp nhân, có vốn cổ phần, có bảng cân đối kế toán riêng, có con dấu và được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại. Hội đồng quản lý quỹ gồm sáu (06) thành viên: Chủ tịch Hội đồng quản lý quỹ là cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; năm (05) thành viên là lãnh đạo Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Giám đốc Quỹ và Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam. Ban quản lý Quỹ hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm trong thời hạn năm (05) năm và được hưởng các chế độ theo quy định hiện hành của Nhà nước. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định sơ đồ tổ chức của Quỹ. Vốn đăng ký của Quỹ được cấp từ ngân sách nhà nước là 2.000 (hai nghìn) tỷ đồng. Việc tăng vốn cổ phần của Quỹ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sau khi thống nhất với Bộ Tài chính.

lập quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
2. Chức năng, nhiệm vụ của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Về cơ bản, Quỹ thực hiện các chức năng: cho vay, tài trợ DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị và tiếp nhận, quản lý các khoản vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân hỗ trợ DNNVV. Quỹ cho vay dưới hai hình thức: Quỹ cho vay trực tiếp đối với doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị có nhu cầu vay vốn và Quỹ cho vay gián tiếp đối với DNNVV thông qua việc cấp vốn cho các ngân hàng thương mại. Quỹ cấp vốn cho DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, DNNVV tham gia cụm ngành, chuỗi giá trị thông qua phương thức cấp vốn từ nguồn vốn vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân hoặc vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của Quỹ. Để được hỗ trợ vốn, DNNVV khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và DNNVV tham gia cụm công nghiệp, chuỗi giá trị phải có dự án, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Mức ứng vốn không quá 01 (một) tỷ đồng cho một dự án, phương án sản xuất, kinh doanh nhưng không quá 50% vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng hoặc mua máy móc, thiết bị. Thứ hai: Ngoài chức năng cho vay và tài trợ cho DNNVV, Quỹ còn tiếp nhận và quản lý các khoản cho vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp và ủy thác từ các tổ chức, cá nhân để hỗ trợ DNNVV. Nhằm giúp DNNVV sử dụng vốn hiệu quả, Quỹ triển khai các hoạt động hỗ trợ nâng cao năng lực DNNVV, bao gồm: tổ chức hội thảo, truyền thông, đào tạo, tư vấn, xúc tiến đầu tư, thương mại, cung cấp thông tin, cơ sở dữ liệu. Căn cứ vào nguồn vốn hoạt động và kế hoạch hoạt động hàng năm, Quỹ lập các dự án, chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển; các dự án, chương trình đầu tư, tạo lập cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, không gian làm việc chung hỗ trợ DNNVV, bảo đảm hiệu quả hỗ trợ và phù hợp đối tượng. Hướng tới hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, Quỹ tập trung hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị. Đối với các nguồn vốn tiếp nhận, tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, Quỹ sẽ hỗ trợ DNNVV đáp ứng các điều kiện của nhà tài trợ và phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Có thể nói, việc thành lập Quỹ Phát triển DNNVV là một bước đi quan trọng của Chính phủ trong việc tăng cường kênh hỗ trợ tài chính cho DNNVV. Đây được coi là định chế tài chính công đầu tiên dành riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam.
3. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hỏi: Giấy ủy quyền, tôi có cơ sở kinh doanh chuyên về hạt sầu riêng. Công ty có vốn đăng ký là 1,5 tỷ đồng. Tổng doanh thu hàng năm là 3 tỷ đồng. Hiện công ty có 8 nhân viên. Vậy, doanh nghiệp của tôi có phải là doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật hiện hành không?
Theo Điều 6 Nghị định 39/2018/NĐ-CP: Điều 6. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa Doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân loại theo quy mô, bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
- Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng thu nhập bình quân năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng thu nhập bình quân năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
- Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng thu nhập bình quân năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng có vốn điều lệ không quá 20 tỷ đồng nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo nội dung quy định tại khoản 1 Điều này. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ. - Doanh nghiệp theo nội dung quy định tại khoản 1 Điều này.
- Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 200 người và tổng thu nhập của năm không quá 200 tỷ đồng hoặc tổng có vốn không quá 100 tỷ đồng nhưng không phải là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 100 người và tổng thu nhập năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng nhưng không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Như vậy, theo quy định của luật mới, tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa có sự thay đổi như sau:
- Doanh nghiệp siêu nhỏ có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng thu nhập bình quân năm không quá 10 tỷ đồng hoặc nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
- Doanh nghiệp nhỏ: có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng. - Doanh nghiệp vừa: Có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 100 người, tổng thu nhập của năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng. Trả lời câu hỏi của bạn: Xét theo các tiêu chí trên, doanh nghiệp của bạn là một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước theo quy định hiện hành.
4. Chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong thời gian qua, Chính phủ đã không ngừng triển khai các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện hành lang pháp lý cho đổi mới sáng tạo, tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển. Năm 2014, Chính phủ đã trình và Quốc hội thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi); Luật Chuyển giao công nghệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (2017); Luật Cạnh tranh (2018)…Việc triển khai một số luật quan trọng này nhằm tạo chuyển biến tích cực trong môi trường đầu tư kinh doanh. Cùng với đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thuế Doanh nghiệp và hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành có tác động tích cực đến cộng đồng doanh nghiệp. Hàng năm, Chính phủ đều nhanh chóng có các nghị quyết đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra của DNNVV, như Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 và Chỉ thị 26/CT-TTg ngày 06/6/2017 về đồng hành và phát triển công ty đến năm 2020; Nghị quyết số 75/NQ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2017 về cắt giảm phí, chi phí kinh doanh; Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... Việc thực hiện các nghị quyết này đã đơn giản hóa, cắt giảm điều kiện kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho các thành phần kinh tế và hỗ trợ phát triển DNNVV. Nhiều chính sách đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành nhằm mở rộng quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh tế tư nhân liên quan đến đất đai, tạo môi trường thuận lợi cho các công ty và nhà đầu tư tăng quy mô đầu tư, sản xuất và kinh doanh. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành và lãnh đạo thực hiện đẩy mạnh cải cách hành chính, ban hành Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2016 phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 -2020. Điều này đã tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ của chính quyền, chính quyền các cấp đối với người dân và doanh nghiệp, xóa bỏ mọi rào cản, bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp. Nhằm tiếp tục nâng cao hiệu lực pháp luật và thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ DNNVV, tại Kỳ họp thứ 3, Kỳ họp thứ XIV, Quốc hội đã thông qua Luật Hỗ trợ DNNVV (năm 2017). Luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 với hàng loạt chính sách hỗ trợ cơ bản cho DNNVV như: hỗ trợ tiếp cận tín dụng, thông tin, phát triển nguồn nhân lực, tư vấn, công nghệ… đã tạo dấu mốc hoàn thiện các hỗ trợ tích cực chính sách để DNNVV ngày càng lớn mạnh. Chính phủ ban hành Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10 tháng 5 năm 2019 về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo nghị định này, Quỹ phát triển DNNVV cho vay và hỗ trợ nâng cao năng lực cho DNNVV; tiếp nhận, quản lý và sử dụng các khoản vay, tài trợ, viện trợ, đóng góp và ủy thác; phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro; Định hướng tài chính… Nhằm tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV và phong trào ươm mầm, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 34/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2018 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Cùng với đó là việc cụ thể hóa các quy định, chính sách hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo theo quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV [1, tr.8]. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng hoàn thiện. Cụ thể, Chính phủ đã đẩy mạnh công tác vận hành, khai thác và phát triển Cổng thông tin quốc gia về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; xây dựng cơ sở dữ liệu hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam với thế giới. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất, chất lượng. Khuyến khích liên kết ngành và sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị bằng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã rà soát, bổ sung các quy định pháp luật về hải quan để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó có việc sửa đổi các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, kiểm soát hải quan. Trong năm 2018, đa số bộ, ngành đã xây dựng các nghị định về điều kiện kinh doanh, trong đó một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, thiếu rõ ràng đã được cắt bỏ. Đồng thời, chú trọng tới việc cắt giảm chi phí khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường của DNNVV2. Để hỗ trợ các DNNVV khai thác được các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp cụ thể góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý hiện đại.
5. Điều kiện vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để được vay vốn, doanh nghiệp nhỏ và vừa đáp ứng các điều kiện sau:
– Có dự án, phương án sản xuất – kinh doanh khả thi thuộc Danh mục các lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ của Quỹ;
– Chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện dự án, phương án sản xuất – kinh doanh có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
– Đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án, phương án sản xuất kinh doanh tối thiểu 20% và phải đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất – kinh doanh;
– Có khả năng trả nợ trong thời hạn quy định tại hợp đồng tín dụng đã ký kết; Doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án, phương án sản xuất – kinh doanh khả thi được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ, thì không được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước. Mỗi dự án, phương án sản xuất - kinh doanh chiếm tối đa 70% tổng vốn đầu tư của từng dự án, phương án (không bao gồm vốn lưu động) nhưng không quá 30 tỷ đồng. Thời hạn tối đa của khoản vay không quá bảy (07) năm. Lãi suất cho vay không vượt quá 90% lãi suất cho vay thương mại, được áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh vực và đối tượng ưu tiên của Quỹ. Lãi suất cho vay thương mại được xác định trên cơ sở lãi suất cho vay bình quân của năm (05) ngân hàng thương mại nhà nước trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan nhà nước quản lý hoạt động của Quỹ. Các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội có trách nhiệm phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhu cầu tiếp cận các hoạt động hỗ trợ của Quỹ.
Nội dung bài viết:
Bình luận