Kết hôn, theo người Lào, là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mỗi người. Theo quan niệm của người Lào, hôn nhân là thời điểm con người cần trưởng thành về nhiều mặt để bước vào cuộc sống tự lập đầy khó khăn, thử thách. Ngoài ra, họ còn chuẩn bị lên chức bố, mẹ, một điều rất mới mẻ đối với các bạn trẻ. Vì vậy, ông bà, cha mẹ và những người thân yêu thường đặc biệt quan tâm giúp đỡ con cái trong thời điểm bước ngoặt quan trọng này. Tục cạo đầu đi tu ở một số địa phương trước khi lập gia đình cũng là bước chuẩn bị cho thanh niên bước vào cuộc sống tự lập. Hình thức cưới hỏi ở Lào khá phong phú và đa dạng, mỗi dân tộc, mỗi địa phương thường có một số nghi lễ cưới hỏi khác nhau. Tục cưới hỏi phản ánh khá rõ nét một hình thức đời sống tinh thần của người Lào và tích tụ nhiều phong tục cổ xưa của mỗi dân tộc.

Chế độ phong kiến đã tồn tại lâu đời trong lịch sử của dân tộc Lào. Nhưng hệ tư tưởng phong kiến, tín ngưỡng và tập quán cổ truyền không ngăn cản được sự tiếp xúc giữa trai và gái, ngược lại, sự gặp gỡ giữa trai và gái được coi là tự nhiên. Với quan niệm này, trai gái Lào có nhiều dịp gặp gỡ, nhất là trong lao động sản xuất, đêm trông trăng và đám cưới. Trước đây, trai gái Lào là con em công nhân thường được tự do lựa chọn người yêu, hầu như không bị ép buộc như ở một số nước phong kiến khác. Tuy nhiên, khi trai gái lấy nhau cũng đã được bàn bạc và được sự đồng ý của cha mẹ hai bên.
Trước đây ở Lào, con gái mười lăm, mười sáu tuổi đã có chồng. Phổ biến nhất là ở tuổi mười tám đôi mươi, ngoài hai mươi lăm được coi là quá tuổi. Các chàng trai thường kết hôn ở độ tuổi đôi mươi. Ở nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, con trai thường lấy vợ sớm hơn thành thị. Xưa cũng như nay, ở nông thôn cũng như ở thành phố, gia đình người Lào có tục lệ là vợ chồng.
Phong tục cưới hỏi của người Lào nhìn chung có trình tự như lễ ăn hỏi, lễ thành hôn và về quê. Khi con cái lớn lên, cha mẹ thường nghĩ đến chuyện lập gia đình. Cha mẹ nhắm vào người mình yêu rồi hỏi ý kiến của con cái. Nơi trai gái tìm hiểu, yêu nhau rồi chủ động báo hiếu cha mẹ. Sau khi đã thống nhất trong gia đình, cha mẹ hai bên nhờ trưởng họ, các bô lão có tiếng trong làng chọn ngày, tháng lành để mang lễ vật đến nhà gái xin, gọi là “can ru-kho”. Lễ vật của lễ này rất đơn giản, chỉ là trầu cau và thuốc lào. Người Lào vùng Đông Bắc Thái Lan trong lễ cưới này thường có một chiếc bát bằng bạc đựng 3 con dơi (đơn vị tiền tệ của Thái Lan) gọi là bạc để đánh tiếng nhà gái. Nếu cô ấy chấp nhận, nhà gái sẽ nhận tiền. Nếu không đồng ý, nhà gái không phải đáp lễ mà chỉ bỏ tiền vào bát bạc của nhà trai.
Khi nhà trai đến hỏi cưới, nếu nhà gái nhận lời thì hẹn ngày nhất định, mời nhà trai đến dự cưới, chọn ngày giờ để tổ chức hôn lễ. Theo phong tục, dù nhà gái có chấp nhận nhà trai với sự ấm áp và tôn trọng hay không. Đến ngày giờ đã định, nhà trai mang sính lễ sang nhà gái. Lễ vật gồm trầu cau, thuốc lá, bánh ngọt, v.v. Một số địa phương ở Nam Lào còn có hạt gạo, hạt vừng, hạt bông trong mâm lễ. Lễ vật do nhà trai mang đến, nhà gái dùng một phần tặng họ hàng, một phần tặng nhà trai. Trong đám hỏi này, họ hàng nhà gái thường đến rất đông. Sau nội dung cầu hôn của đại diện nhà trai, nhà gái phản đối hôn lễ và gọi là “Khả Đồng”. Thông thường nhà gái thách bạc, vàng, bạc, trâu, gạo, rượu.
Ăn hỏi thế nào trong hôn nhân phụ thuộc ít nhiều vào phong tục của từng địa phương, từng gia đình và địa vị xã hội của cha mẹ cô dâu. Đối với đa số nông dân lao động, việc thách cưới dường như là một hủ tục, mang tính tượng trưng nhằm đề cao con gái. Chính vì sự can dự này mà trong lễ rước rể, nhà trai có tục lệ cả hai thực hiện các biện pháp ngăn cản buổi lễ như thách đường, đánh đố... để lấy lòng chàng rể như cô dâu. Trong trường hợp nhà gái có thách cưới cao thì nhà trai xin giảm bớt theo phong tục của bản Mường và đặc biệt quan tâm đến việc đề cao cô dâu về tư cách là người có nhan sắc, có nhan sắc, có tư cách. Nhưng theo phong tục xưa, muốn tranh hôn ít nhiều phải có tiền, nhà trai phải đưa cho nhà gái ngay từ đầu hôn lễ trước mặt hai bên. Nếu là góa phụ hoặc kỹ nữ đeo mặt nạ thì phí tranh hôn thường thấp hơn so với gái chưa chồng. Trai góa vợ thường bỏ vợ, họ nhà gái thường tranh giành hơn trai độc thân.
Thỏa thuận thách cưới đã đạt được, hai người bàn tính ngày cưới. Đó là ngày lành do thầy bói số hoặc già làng có kinh nghiệm chọn. Ngày xấu, ngày xấu, kiêng kỵ không được xuất hành cưới hỏi với quan niệm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Người Lào thường tổ chức đám cưới vào khoảng từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 3 dương lịch, hoặc từ tháng 9 đến tháng 2 dương lịch. Sau lễ cưới, thách cưới và định ngày cưới, đôi trai gái có thể về thăm và giúp đỡ gia đình hai bên một cách tự nhiên.
Trước ngày cưới, gia đình nhà trai cũng như nhà gái đều chuẩn bị chu đáo cho ngày cưới. Theo phong tục cổ xưa của vùng nông thôn Lào, sau ngày cưới, chàng trai thường ở lại với chú rể một thời gian, có trường hợp chàng trai ở lại khá lâu, tùy theo từng gia đình, từng địa phương. Nhà gái thường chuẩn bị sẵn đệm, gối, chăn... thậm chí cả quần áo, khăn quàng cổ để cô dâu tặng cho người chủ gia đình, người mà nhà chồng gọi là "Khương Xâm-ma". Nếu nhà gái thấy cần dựng nhà mới thì báo trước cho nhà trai biết để chuẩn bị tre, gỗ và các vật dụng cần thiết mang sang nhà gái để dựng. Họ hàng, họ hàng, làng xóm hai bên gia đình đã tham gia xây nhà mới cho đôi tân lang tân nương. Theo phong tục của người Lào, việc xây dựng ngôi nhà phải được hoàn thành trong một ngày. Vì vậy, cả hai nên chuẩn bị thật tốt. Việc đón tiếp, tổ chức ăn uống cho bà con lối xóm đến tham gia dựng nhà đều do nhà gái lo liệu.
Theo phong tục cổ xưa ở Lào, đám cưới là dịp vui chơi, ăn uống của hai bên gia đình và cộng đồng bản mường. Nhà giàu thì mổ trâu, bò, nhà nghèo thì mổ lợn gà, nấu rượu ngon để cúng người thân. Đối với trai gái, đây còn là dịp để gặp gỡ, khiêu vũ và tỏ tình. Đám cưới ở Lào thường có một số nghi thức như mời các nhà sư đến tụng kinh, cầu may “xu-khoan”, rước chú rể và thực hiện nghi lễ chúc phúc chung cho cô dâu chú rể. Đại diện hai bên gia đình tư vấn, dặn dò cô dâu, chú rể, cô dâu và chú rể nên trao lễ vật cho chủ gia đình, bố mẹ của chú rể.
Ngày cưới, anh em, họ hàng xa gần cũng đến dự khá đông. Ai cũng có quà mừng cô dâu chú rể để tỏ lòng quý mến. Lễ vật cũng rất đa dạng, tùy theo khả năng của mỗi người, chẳng hạn ở quê trước đây, đi đám cưới thường có tiền, quần áo, xiêm y, bát đĩa, nồi niêu, gạo, gà vịt, rượu. trong lễ cưới, ai cũng mặc những bộ váy dân tộc đẹp nhất, luôn tỏ ra háo hức, vui vẻ.
Đến giờ đã định, nhà trai bắt đầu đưa chú rể đến nhà gái. Đứng đầu là trưởng họ, bưng bát bạc đựng tiền tranh hôn. Đi sau, bốn cô gái trẻ chưa chồng, mỗi người mang một hộp đựng trầu cau, thuốc lào và ché rượu gói trong vải hoặc giấy màu. Sau đó đến mâm lễ (pha-khoan) rồi đến chú rể, phù rể, gia đình, người thân, bạn bè. Trên mâm lễ thường có hoa quả, xôi, trầu cau, bánh trái, kể cả gà luộc hoa quả. Nhiều địa phương trong cao nguyên còn có loại cây hình tháp có hoa lá gọi là “toan beng”. Một số vùng còn chuẩn bị một bát nước hoặc một chiếc vỏ ốc biển lớn ngâm cánh hoa thơm để cô dâu chú rể vẩy cầu may.
Từ nhà trai đến nhà gái, đám rước luôn náo nhiệt bởi tiếng reo hò, ca hát của các chàng trai, cô gái. Đến gần nhà gái, đoàn rước rể thường buộc phải dừng lại trước những sợi tơ trắng. Những người làm việc này giả làm nhà gái và cần lễ vật mới qua được, chú rể mới lấy được cô dâu. Có nơi nhà gái đưa ra một câu đố, nhà trai chỉ biết trả lời. Đoàn rước phải dừng lại, nhà trai vui vẻ bình tĩnh xin ra về và trao lễ vật đã chuẩn bị sẵn để vào cổng.
Đoàn xe nhà trai đến chân cầu thang nhà gái và được người đại diện ra đón. Bà đã lớn tuổi đông con, gia đình sống hòa thuận, bà thay mặt nhà gái ăn nói hoạt bát, xuống đón rể và mời nhà trai vào nhà. Lúc này đến lượt nhà trai cảm kích chú rể. Bạn bè nhà trai dọa giữ chú rể lại, không cho đi đón dâu, họ bảo chú rể khỏe mạnh, dũng cảm, lao động giỏi... Đại diện nhà gái lễ phép chắp tay trước ngực, Trưởng họ, cha mẹ, họ hàng, bạn bè nhà trai cho chú rể về nhà trai dự lễ cưới.
Nhà trai lần lượt tiến lên nhà gái trong sự chào đón nồng nhiệt của nhà gái. Lúc đầu, chủ nhà gái ngỏ ý lặp lại tiền thách cưới đã được hai bên đồng ý. Chủ nhà trai vui vẻ tuyên bố bằng lòng theo tục lệ bản Mường và giữ lời hứa, sau đó trao sính lễ cho chủ nhà gái trước sự chứng kiến của bà con lối xóm và họ hàng hai bên. Sau khi vào lễ đường nhà gái, chú rể đến ngồi cạnh cô dâu ở bàn thờ để bước vào lễ đường chính của lễ cưới. Ban đầu, các nhà sư tụng kinh (s-mon dan) để cầu hạnh phúc và vẩy nước ma thuật (trả thù) lên cô dâu và chú rể. Ở một số địa phương, nhà sư còn rắc những cánh hoa thơm lên tóc cô dâu, chú rể với mong muốn trời Phật ban cho cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc. Tiếp đến là lễ “xu-khoan” - một nghi lễ phổ biến ở Lào. Nhưng đó là lễ cưới (xú-khon-dong) được tiến hành trong không khí trang trọng hơn, có thầy cúng, trưởng họ, họ hàng, bà con, làng xóm, bạn bè của hai bên tham dự. Từ Khôn ngày).
Ngồi vào mâm lễ, chú rể đặt tay lên tay cô dâu gọi là “đốt ngón tay” tượng trưng cho sự gắn bó thủy chung giữa cô dâu và chú rể. Trưởng họ nhà trai và nhà gái lần lượt chúc cô dâu chú rể yêu nhau đến tóc bạc răng long, rồi vẩy nước lã và buộc chỉ hai cổ tay lại. Trong khi những người lớn tuổi, bố mẹ và họ hàng thay phiên nhau trói cổ tay cô dâu chú rể thì một ông già lấy trên mâm một quả trứng luộc chín, bóc vỏ rồi dùng một sợi tóc cắt đôi để xem lòng đỏ còn nguyên hay không. Người Lào tin rằng, độ tròn của lòng đỏ trứng gà có mối quan hệ nhất định với hạnh phúc trăm năm của đôi trẻ. Ở nhiều địa phương, tục chọn người dẫn cô dâu, chú rể vào phòng ngủ vẫn có tục lệ. Đảm nhận là người phụ nữ được chọn đại diện cho họ nhà gái đón chú rể ở chân cầu thang. Người phụ nữ này dùng một sợi dây điện uốn làm đôi, mỗi người nắm một đầu dẫn vào phòng ngủ, cô dâu đi trước, chú rể theo sau. Chiếc nệm trải topper của cô dâu chú rể cũng được chú ý. Khi đoàn rước rể lên nhà, một người phụ nữ tốt bụng hoặc một cặp vợ chồng đông con, sống hòa thuận vào phòng trải chiếu, đệm cho cô dâu chú rể. Người Lào tin rằng cuộc sống hòa thuận, hạnh phúc của người thợ làm đệm và người làm thảm sau này sẽ ảnh hưởng đến đôi vợ chồng trẻ.
Sau đó, chú rể mang nến và hương đến chủ hộ cô dâu. Cô dâu cũng mang lễ vật đến cho trưởng họ, cha mẹ chú rể. Lễ vật tùy theo phong tục của từng địa phương, từng gia đình. Ở nông thôn Lào, cô dâu mừng chủ gia đình, bố chồng mỗi người một bộ quần áo, khăn đóng, mẹ chồng một bộ váy. Hành động này thể hiện sự tôn trọng và biết ơn của cô dâu đối với sự hỗ trợ của nhà chồng.
Kết thúc nghi thức cưới, trưởng họ nhà trai bày tỏ lòng biết ơn trước sự đón tiếp thân mật, nồng hậu của nhà gái và mong muốn chú rể về ở lại làm con dâu nhà gái. Đại diện nhà gái vui vẻ đồng ý và khuyên nhủ cô dâu cách cư xử, trách nhiệm với bố mẹ và anh rể. Đám cưới kết thúc, chú rể cùng họ hàng trở về nhà. Vào thời gian đã định trước, thường là khoảng sáu, bảy giờ tối, bố mẹ chú rể, phần lớn là bạn bè, chính thức tháp tùng chú rể về nhà gái. Nhà gái thường chuẩn bị cơm rượu để đón chú rể và họ hàng, bạn bè. Sau khoảng 3 năm, hai vợ chồng xin phép hoặc bố mẹ gợi ý hai vợ chồng dọn ra ở riêng. Khi ra ở riêng, vợ, chồng được mang theo gạo, nông cụ, gia súc và một số đồ dùng khác của họ hàng bên vợ.
Ngày nay, đám cưới ở Lào thường được tổ chức đơn giản, tiện nghi hơn tùy theo hoàn cảnh của mỗi gia đình. Những nghi lễ tục lệ gây lãng phí tiền bạc và thời gian ngày nay đã bị loại bỏ. Độ tuổi kết hôn có xu hướng chậm hơn trước, đặc biệt là nam giới. Những nét đặc sắc của dân tộc, địa phương gắn liền với lao động sản xuất, nghề nghiệp, tín ngưỡng luôn được kế thừa và phát huy trong lễ cưới. Trên hết là sự hòa thuận, đoàn kết của cộng đồng người Mường.
Nội dung bài viết:
Bình luận