Bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam quý 1 và dự báo cả năm 2024

TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo đánh giá về bức tranh kinh tế vĩ mô Việt Nam quý 1 và dự báo cả năm 2023.

1. Bối cảnh kinh tế toàn cầu

Trong quý I, kinh tế thế giới phục hồi một cách khó khăn, lạm phát dù đã qua đỉnh và dần hạ nhiệt nhưng vẫn còn ở mức cao; nhiều nước tiếp tục xu hướng thắt chặt tiền tệ, tăng nhẹ lãi suất ít nhất là đến hết quý 2/2023; xung đột tại Ukraina kéo dài sang năm thứ 2 vẫn phức tạp, khó đoán định. Tuy vậy, một số dấu hiệu tích cực đối với kinh tế thế giới như: (i) niềm tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp đang dần hồi phục; (ii) lạm phát hạ nhiệt và tiền lương tăng đã giúp tăng thu nhập thực tế của người dân, hỗ trợ chi tiêu dùng; áp lực lãi suất, tỷ giá giảm dần; (iii) hoạt động kinh doanh, nhất là lĩnh vực dịch vụ tăng trở lại; (iv) giá năng lượng giảm dần nhờ nhu cầu tiêu thụ năng lượng giảm và các nước đa dạng hóa nguồn cung (dù còn rủi ro do OPEC giảm sản lượng); và (v) kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại khá thuận lợi.
Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn đối mặt với 4 khó khăn chính gồm: (i) xung đột tại Ukraina vẫn dai dẳng, phức tạp, khó lường; (ii) giá cả, lạm phát giảm nhiệt nhưng còn ở mức cao, lãi suất vẫn trong xu thế tăng trong nửa đầu năm và dự báo còn ở mức cao trong cả năm 2023; (iii) sự đổ vỡ, phá sản của một số ngân hàng lớn tại Mỹ, Thụy Sĩ,... tác động tiêu cực đến hệ thống tài chính - ngân hàng, lòng tin của người dân, nhà đầu tư và gia tăng rủi ro tài chính - tiền tệ quốc tế, dẫn đến sự phục hồi của kinh tế toàn cầu chưa thực sự mạnh mẽ; (iv) rủi ro về năng lượng và an ninh lương thực vẫn hiện hữu.
Trong bối cảnh đó, các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 sẽ thấp hơn đáng kể so với năm 2022 (khoảng 1,7-2,2%), mặc dù CPI toàn cầu sẽ giảm từ 7,6% năm 2022 xuống khoảng 5% năm 2023, trong đó thương mại quốc tế dự kiến ​​chỉ tăng khoảng 1,7% so với 2,7% vào năm 2022 và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục xu hướng giảm mạnh. .

2. Tình hình kinh tế Việt Nam quý I/2023

Trong bối cảnh quốc tế còn nhiều rủi ro, bất ổn, nguy cơ suy thoái kinh tế vẫn còn và rủi ro tài chính, tiền tệ gia tăng; Kinh tế Việt Nam quý I/2023 ghi nhận 6 điểm tích cực
Thứ nhất, Chính phủ đang nỗ lực quyết liệt để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng. Trong quý I, Chính phủ đã có nhiều định hướng, giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn trong nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Để tháo gỡ khó khăn cho ngành y tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/2023/NĐ-CP ngày 03/03/2023 sửa đổi, bổ sung Nghị định 98/2021/NĐ-CP liên quan đến quản lý trang thiết bị y tế; Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 03/04/2023 về bảo đảm thuốc và trang thiết bị y tế; Một số vấn đề đang dần được giải quyết.
Đối với lĩnh vực tài chính và bất động sản, Nghị định 08/2023/NĐ-CP ngày 05/03/2023 sửa đổi, bổ sung và tạm dừng hiệu lực một số điều của các nghị định quy định về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) hỗ trợ lĩnh vực này. tất toán trái phiếu doanh nghiệp đến hạn; Nghị quyết 33/NQ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2023 về một số giải pháp khắc phục và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững. Trong đó, Nghị định 10/2023/NĐ-CP ngày 3/4/2023 được coi là biện pháp mạnh để tháo gỡ vướng mắc về hành lang pháp lý về bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng.
Để hỗ trợ tăng trưởng, các chính sách tài khóa và tiền tệ đã được điều chỉnh theo hướng nới lỏng và mở rộng phù hợp. Về chính sách ngân sách, Chính phủ đã nỗ lực thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công (Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 23/3/2023), đạt được những kết quả bước đầu quan trọng được đánh giá dưới đây cũng như việc nghiên cứu ban hành các chính sách nới lỏng thuế và giải pháp trì hoãn. và mới vào năm 2023. Đối với chính sách tiền tệ, NHNN đã điều hành linh hoạt khi 2 lần giảm một số lãi suất điều hành (ngày 14/3 và 31/3) với mức giảm từ 0,5 – 1%, qua đó thể hiện tính chủ động “chuyển trạng thái” từ thận trọng sang chủ động, linh hoạt nới lỏng chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện thị trường bên ngoài và bên trong nền kinh tế.
Hai là , lĩnh vực dịch vụ phục hồi tốt, là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 6,79% (đóng góp 89% vào mức tăng trưởng chung, không kể thuế sản phẩm), trong khi lĩnh vực công nghiệp và xây dựng giảm 0,4% (làm giảm 4,76% mức tăng trưởng chung). Trong đó, nổi bật là dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 26% (chủ yếu do du lịch phục hồi mạnh và chi tiêu dịp Tết), bán buôn và bán lẻ tăng 8,1%, dịch vụ tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,65%, vận tải - kho bãi tăng 6,85%...v.v.

Ba là, lạm phát hạ nhiệt, được kiểm soát ở mức phù hợp : hết quý 1, CPI bình quân bình quân tăng 4,18% (giảm từ mức 4,6% bình quân 2 tháng đầu năm) và lạm phát cơ bản tăng 5,01 % so cùng kỳ (giảm từ mức 5,08% bình quân của 2 tháng đầu năm). Lạm phát đã qua đỉnh và tiếp tục hạ nhiệt cho thấy các biện pháp kiểm soát đã dần phát huy tác dụng cùng với đà giảm giá và lạm phát của thế giới.
Bốn là, các cân đối lớn được đảm bảo, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định: lãi suất huy động giảm khoảng 0,5-1,5% so với đầu năm, chủ yếu với các kỳ hạn trên 6 tháng khi thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện và nhu cầu tín dụng còn thấp (tín dụng hết quý 1 chỉ tăng 2,06%, thấp hơn nhiều mức tăng gần 6% cùng kỳ năm trước). Lãi suất cho vay cũng giảm (khoảng 1-2%) kể từ đầu năm khi nhiều tổ chức tín dụng tung ra các công thức tín dụng ưu đãi. Tuy nhiên, lãi suất vẫn ở mức cao và các tổ chức cho vay vẫn cần duy trì các điều kiện cho vay thận trọng khi điều kiện kinh tế khó khăn và tiềm ẩn nợ xấu.
Trong quý I, tỷ giá ghi nhận xu hướng giảm ngang với mức của tháng 9/2022 (trước những biến động mạnh của tỷ giá và lãi suất). Kết thúc quý I/2023, tỷ giá liên ngân hàng giảm 0,65% và tỷ giá trung tâm giảm 0,04% so với cuối năm 2022. Bốn nguyên nhân chính là: (i) đồng USD trên thị trường quốc tế giảm (riêng số DXY giảm 1,33% so với cuối năm 2022); (ii) nhu cầu thanh toán bằng ngoại tệ yếu khi hoạt động nhập khẩu giảm (-14,7%) so với cùng kỳ năm trước, xuất siêu 4,1 tỷ USD; (iii) sự phục hồi của du lịch quốc tế; và (iv) dự trữ ngoại hối tăng do NHNN tiếp tục mua vào đô la Mỹ. Thứ năm, giải ngân vốn đầu tư công được khuyến khích và cải thiện đáng kể. Vốn đầu tư thực hiện nguồn ngân sách nhà nước quý I ước tính đạt 91,5 nghìn tỷ đồng, đạt 13,4% kế hoạch năm và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước (tương đương tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2022) . kế hoạch và tăng 12,3%). Trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức; Kết quả giải ngân vốn đầu tư công như vậy là điểm sáng và là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế năm 2023.
Thứ sáu, thu ngân sách duy trì xu hướng tích cực: Thu NSNN quý I đạt 491,5 nghìn tỷ đồng, bằng 30,3% dự toán năm, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2022. Chi NSNN quý I đạt 363,4 nghìn tỷ đồng đồng. , bằng 17,5% dự toán năm, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2022. Kết quả, NSNN thặng dư 128,1 nghìn tỷ đồng, chủ yếu do thu ngân sách tăng nhẹ trong khi tỷ lệ chi vốn đầu tư phát triển duy trì ở mức thấp so với mục tiêu dự kiến. Điều này tạo thêm dư địa cho chính sách tài khóa bằng cách cung cấp các chương trình hỗ trợ, hoãn nộp thuế và phí cho các cá nhân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thu ngân sách có thể khó khăn hơn trong bối cảnh kinh tế khó khăn.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    Họ và tên không được để trống

    Số điện thoại không được để trống

    Số điện thoại không đúng định dạng

    Vấn đề cần tư vấn không được để trống

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo