Bạn đang thắc mắc về lãi suất trong hợp đồng vay thế chấp? Quy định về lãi suất ngân hàng khi cho vay tín chấp? Làm thế nào để tính lãi cho các khoản vay sinh viên? và các vấn đề pháp lý liên quan khác sẽ được luật sư tư vấn cụ thể:1. Quy định mới về lãi suất trong bộ luật dân sự hiện hành?
Bộ luật dân sự năm 2015 có những điểm thay đổi rất đáng chú ý so với bộ luật dân sự cũ về 4 loại lãi suất là lãi suất ghi nợ, lãi suất chậm trả, lãi suất chậm trả và các loại lãi suất chậm trả khác. Luật sư phân tích:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 468 BLDS 2015, cụ thể như sau:
“Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất cho vay do các bên thoả thuận:
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì mức lãi suất đã thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật hiện hành khác có quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và đề nghị của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh các mức lãi suất nêu trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp tới. Trường hợp lãi suất thỏa thuận vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ mức lãi và có tranh chấp về mức lãi thì mức lãi được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Như vậy, về lãi suất, lãi suất cho vay cũng do thỏa thuận nhưng không được vượt quá 20%/năm (nếu không thỏa thuận rõ ràng thì là 10%/năm). Như vậy, từ năm 2017, trần lãi suất cho vay được nâng lên 6,5% (từ 13,5% lên 20%/năm). Tuy nhiên, việc tổ chức tín dụng (TCTD) có được phép cho vay vượt lãi suất 20%/năm với điều khoản mở rộng “trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác” hay không vẫn chưa rõ ràng.
Vậy, các ngân hàng và tổ chức tín dụng sẽ chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật Các tổ chức tín dụng 2010?
Có thể thấy, hợp đồng vay thế chấp nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng cấu thành một loại giao dịch dân sự.
Vì vậy, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay cầm cố là một trong những ví dụ điển hình cho việc hiện thực hóa nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền công dân, theo đó các bên trong hợp đồng vay tài sản thỏa thuận về mức lãi suất nhưng không được vượt quá giới hạn lãi suất pháp luật quy định. Việc quy định trần lãi suất giúp nhà nước điều tiết thị trường vốn vay khi cần ổn định kinh tế - xã hội, định hướng các chuẩn mực ứng xử trong quan hệ vay vốn, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế cho vay nặng lãi. Nhưng không để trần lãi suất trở thành công cụ pháp lý điều hành các quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt theo từng loại quan hệ vay mua nhà ở, có thể sửa đổi, bổ sung kịp thời phù hợp với yêu cầu biến động của kinh tế - xã hội.
Vì vậy, Khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 cũng quy định linh hoạt theo hai cơ chế, đó là:
i) Tùy tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức lãi suất theo đề nghị của Chính phủ; (ii) Các quy định khác của pháp luật có liên quan quy định mức lãi suất riêng đối với các quan hệ vay cụ thể.
Như vậy, trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác về lãi suất thì các mức lãi suất này sẽ được áp dụng đối với quan hệ nợ theo quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy định này không chỉ áp dụng cho các quan hệ tín dụng ngân hàng thương mại mà còn áp dụng cho các loại cho vay đặc thù khác như cho vay chính sách xã hội, cho vay đầu tư phát triển, cho vay vàng, cho vay ngoại hối,... nếu Nhà nước thấy cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ vay này bằng một cơ chế lãi suất riêng. Điều này có nghĩa là trường hợp Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định cơ chế trần lãi suất riêng cho các hợp đồng tín dụng thì các tổ chức tín dụng sẽ áp dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng 2010. Tuy nhiên, theo tinh thần của Khoản 2, Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, thực tiễn cho thấy cơ chế lãi suất riêng chưa được áp dụng cho các hợp đồng tín dụng vì mục đích hoạch định chính sách. Nhưng về mặt kỹ thuật, quy định này đã làm nảy sinh nhiều cách hiểu khác nhau, kể cả trong các bản án của Tòa án, không có lợi cho các chủ thể của hợp đồng tín dụng trước những rủi ro pháp lý có thể phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật.
Cũng giống như các tổ chức cho vay khác, các công ty tài chính thường đưa ra một mức lãi suất nhất định đối với các khoản vay. Đó là một cách để các tổ chức này tự cung tự cấp và trở thành nhà cung cấp tài chính dài hạn trong khu vực nơi họ hoạt động. Tuy nhiên, do quản lý nhiều khoản vay nhỏ thường tốn kém hơn quản lý một khoản vay lớn nên một số tổ chức thường đưa ra mức lãi suất cao hơn lãi suất thông thường để bù đắp chi phí quản lý và rủi ro, vòng quay này bị phá vỡ bởi trần lãi suất 20% quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Còn đối với hệ thống ngân hàng thương mại, trước hết là quy định theo tinh thần của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. tỷ lệ. Chỉ trong điều kiện thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng có những diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong quan hệ giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Cơ chế xác định lãi suất này có thể bao gồm cả việc giới hạn lãi suất ghi nợ trong quan hệ cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Như vậy, nếu áp dụng trần lãi suất cho vay mà Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cho phù hợp với hoạt động ngân hàng thì sẽ luôn tồn tại một trần lãi suất định khung cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. Thực vậy, với tư cách là một trung gian tài chính nhận tiền gửi của dân chúng và sử dụng số tiền gửi này để cho vay, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác định trên cơ sở lãi suất cho vay, chi phí huy động vốn, chi phí đi vay, thời hạn cho vay, uy tín của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay,… Vì vậy, các tổ chức tín dụng thường quy định một mức lãi suất ghi nợ khác nhau và một mức trần khác nhau đối với từng loại cho vay.
Còn hoạt động tín dụng tiêu dùng tại các định chế tài chính là hoạt động vay khá đặc thù, chủ yếu dựa trên tín chấp, thủ tục giấy tờ tương đối đơn giản nên tính rủi ro cao hơn so với các hình thức tín dụng thông thường. Như vậy, để bù đắp rủi ro, lãi suất của khoản vay tiêu dùng sẽ cao hơn so với mặt bằng lãi suất chung. Để quản lý hoạt động tín dụng tiêu dùng, không nên áp trần lãi suất mà cần dựa trên sự thỏa thuận giữa khách hàng và bên cho vay. Nếu khống chế trần lãi suất sẽ tạo ra rủi ro và làm méo mó thị trường. Hơn nữa, nó không phù hợp với xu thế hội nhập mà Việt Nam đang theo đuổi. Trong những điều kiện đặc biệt, các nhà quản lý có thể sử dụng các công cụ hành chính, tuy nhiên, việc sử dụng các biện pháp hành chính ngày càng nhiều sẽ gây khó khăn hơn cho cả người cho vay và người đi vay.
Nhìn chung, lãi suất ghi nợ của các ngân hàng không vượt quá 20%/năm.
Tuy nhiên, lãi suất vay thẻ tín dụng phổ biến trong khoảng 20-35%/năm, riêng lãi suất vay tiêu dùng từ các công ty tài chính phổ biến ở mức 20-40%, có thời điểm lên tới 50-70%. Vì vậy, nếu áp dụng mức trần 20% lãi suất cho vay của Bộ luật Dân sự năm 2015 là rất phi thực tế và đi ngược lại nguyên tắc tự do hóa lãi suất đã được thừa nhận trong lĩnh vực ngân hàng và nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là lãi suất cho vay nói chung, sắp tới nếu vượt quá 100%/năm (135%/năm trước) thì có nguy cơ phạm tội cho vay nặng lãi và nếu vượt quá 20%/năm (13,5%/năm trước 2017) thì sẽ vô hiệu, bị xử phạt hành chính và không được ghi nhận là căn cứ tính thuế, trong khi chỉ riêng lãi suất ghi nợ của các tổ chức tín dụng có thể bị xử lý hình sự vượt mức tội phạm.
Khoản 5, điều 466[3] BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, theo đó, nếu chậm trả nợ gốc thì ngoài việc trả gốc còn phải trả lãi với mức lãi suất “bằng 150% mức lãi suất theo hợp đồng của khoản vay”. Như vậy, theo quy định này, mức lãi suất nợ gốc đến hạn tối đa từ năm 2017 sẽ tăng thêm 1% so với trước đây. Quy định này cũng bất hợp lý, bởi nếu trước đây mỗi lần chậm trả gốc phải chịu lãi suất chậm trả 9% thì nay sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào lãi suất của khoản vay. Ví dụ vay lãi suất 2%/năm thì khi nợ chỉ cần trả 3% (cộng 1%), nếu vay 20%/năm thì nợ trả đến 30%/năm (20% x 150% = 30% cộng 10%) sẽ đề cao trách nhiệm trả nợ của người vay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay. Đặc biệt, nếu các TCTD được phép cho vay tới 70%/năm như đã nêu trên, thì lại được phép tính lãi suất chậm trả lên tới 105%/năm. Và riêng mức lãi suất ngất ngưởng này của các TCTD còn được tiếp tục duy trì đến cả sau khi đã có phán quyết của Tòa án theo Án lệ số 08/2016/AL ( Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.)
Mà theo đó, trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm:
lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng. Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay.
Ngoài việc quy định trả nợ gốc trong hạn và quá hạn như trên, BLDS năm 2015 còn có thêm một quy định mới về việc trả nợ lãi tính trên số lãi chậm trả (còn được gọi là lãi nhập gốc để tính lãi tiếp hay lãi mẹ đẻ lãi con). Cụ thể hơn, điểm a khoản 5 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 quy định mức lãi suất không trả được đối với lãi suất cố định là 10%/năm. Quy định mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tăng thêm gánh nặng cho người đi vay, khi họ không có khả năng trả nợ lãi suất cao, họ sẽ phải trả lãi suất chậm trả rất cao, đặc biệt là lãi ngoài lãi suất. Còn về lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng, Bộ luật Dân sự năm 2015 không đề cập đến, vì nếu hiểu lãi suất cho vay ngoại tệ tối đa là 20%, lãi suất mặc định là 10%/năm thì sẽ không hợp lý.
Về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền, Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền
Đầu tiên. Trong trường hợp bên nợ chậm trả thì bên nợ phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất do chậm trả do các bên thoả thuận xác định nhưng không vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của bộ luật này; trường hợp không có thoả thuận thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 468 của bộ luật này.
Như vậy, theo quy định này, BLDS năm 2015 không quy định về việc áp dụng lãi suất cơ bản[4] do Ngân hàng Nhà nước công bố. Tuy nhiên, một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn quy định việc áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Ví dụ: điểm d khoản 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Phòng chống tệ nạn xã hội; phòng chống cháy nổ; Phòng, chống bạo lực gia đình quy định phạt tiền đối với hành vi “Cho vay tiền có cầm cố tài sản mà lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay”. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với quy định của BLDS 2015 về áp dụng lãi suất cũng là vấn đề mà các cơ quan nhà nước có liên quan đang khẩn trương giải quyết.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLDS 2015 về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì lãi suất chậm trả do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm.
Trọng tài thương mại thường thỏa thuận thống nhất về mức lãi suất mặc định trong thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ theo hợp đồng thương mại, có thể cao hơn mức giới hạn 9% hoặc 10% tùy theo quy định của Bộ luật Dân sự, nếu lãi suất tiền vay trung bình từ 7%/năm trở lên. Trường hợp này dựa trên quy định rằng bên chậm trả có quyền yêu cầu bên kia trả lãi “theo mức lãi suất trung bình đối với các yêu cầu thanh toán quá hạn trên thị trường” theo quy định tại mục 306[6] của Đạo luật Thương mại 2005 về quyền yêu cầu thanh toán lãi chậm thanh toán. Giải quyết dứt điểm các quy định về lãi suất kỳ hạn, lãi suất quá hạn. Để giải quyết vấn đề này, đề nghị một trong các văn bản nêu hoặc giải thích rõ về việc tổ chức tín dụng được phép áp dụng trần lãi suất trên 20%, cụ thể: Sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng 2010 theo nghĩa cho phép áp dụng trần lãi suất chung theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015. Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích luật theo thẩm quyền. Điều đáng lo ngại là ngay cả khi lãi suất cho vay vượt quá 20%/năm của các tổ chức tín dụng có thể được luật hóa, thì nó vẫn tiếp tục gây ra những tranh chấp không đáng có giữa những người cho vay. Bởi lãi suất cho vay ngoài các tổ chức tín dụng, kể cả lãi suất cầm đồ, thường cao hơn hoặc ít nhất bằng lãi suất cho vay từ các tổ chức tín dụng[7]. Bởi cũng có ý kiến cho rằng không cần sửa luật gì cả, vì Điều 4[8] BLDS năm 2015 đã có sự điều chỉnh đáng chú ý khi quy định cụ thể các nguyên tắc áp dụng BLDS. Như vậy, trong trường hợp có sự khác biệt giữa BLDS 2015 với các luật khác thì áp dụng quy định của luật khác, trừ trường hợp quy định của luật khác vi phạm nguyên tắc cơ bản của BLDS 2015. Cụ thể, Điều 468 BLDS 2015 quy định loại trừ việc áp dụng mức trần 20% đối với lãi suất cho vay trong “trường hợp luật có liên quan có quy định khác”. “Luật khác” ở đây có nghĩa là luật chuyên ngành.
Theo quy định tại Mục 12 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 và Khoản 2, 3 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng 2010, trong điều kiện bình thường, lãi suất cho vay hoạt động ngân hàng sẽ do ngân hàng tự thỏa thuận, không áp dụng trần lãi suất. Chỉ trong điều kiện đặc biệt cần có sự can thiệp của Nhà nước, Ngân hàng nhà nước mới quy định cơ chế xác định lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng, cơ chế xác định lãi suất này có thể bao gồm trần lãi suất cho vay trong quan hệ cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng.
Như vậy, có thể hiểu, BLDS năm 2015 đã loại trừ việc áp dụng mức trần lãi suất vay 20%/năm đối với hoạt động cho vay của các TCTD, mà theo đó, pháp luật về tín dụng, ngân hàng sẽ cho phép các bên trong quan hệ tín dụng là TCTD và khách hàng được tự thoả thuận.
Quan điểm của tác giả về vấn đề này, dù có sự vênh nhau giữa quy định về lãi suất của BLDS năm 2015 với luật chuyên ngành (khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010), mà theo đó, lãi suất trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD theo cơ chế thoả thuận nhưng “theo quy định của pháp luật”. Việc ghi thêm cụm từ này khiến các TCTD, khách hàng có quan hệ tín dụng với TCTD và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật thật sự “lúng túng” không biết theo pháp luật về tín dụng ngân hàng (không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi suất cho vay). Từ đó, người viết kiến nghị, pháp luật chuyên ngành cần quy định cụ thể và rõ ràng hơn về việc áp dụng lãi suất này, theo đó, cần thiết phải sửa đổi tại khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, theo hướng bỏ cụm từ “theo quy định của pháp luật”, sửa đổi này sẽ là “rào chắn” không quy chiếu ngược trở lại với BLDS nhằm tránh xảy ra tình trạng “lòng vòng”, không rõ ràng trong các quy định của pháp luật và như vậy sẽ ổn thỏa hết mọi việc, nhất là phù hợp hơn với các quy định BLDS năm 2015. Để tạo điều kiện cho thị trường tài chính hoạt động minh bạch, bền vững, các cơ quan nhà nước có liên quan cần sớm công bố các văn bản quy phạm pháp luật liên quan để hướng cụ thể hơn việc thi hành BLDS 2015. Trong đó, cần giải thích rõ “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” nêu tại khoản 1 Điều 468 BLDS 2015 áp dụng cho những đối tượng cụ thể nào? Chỉ bằng cách này, doanh nghiệp mới có thể giải tỏa lo lắng và thúc đẩy phát triển thị trường.
Xin chân thành cảm ơn!2. Hỏi về lãi suất trong hợp đồng thế chấp?
Xin chào, tôi có một câu hỏi mà tôi hy vọng bạn có thể trả lời. Theo tôi được biết, NHNN quy định một mức lãi suất cơ bản nhất định trong mỗi thời kỳ, vậy biểu thức "* đối với loại cho vay tương ứng" ở đây có nghĩa là gì? Nếu chỉ nói về thời hạn của khoản vay trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Chẳng hạn, hai bên cho vay nhưng không ấn định thời hạn vay thì có thể lấy lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước để tính mức cao hơn không? Hay lấy lãi suất chào bán của ngân hàng thương mại nhà nước để tính cao hơn? Tôi cám ơn! Bạn
Chân thành,
Diễn giả: V.H. Linh
Luật sư tư vấn về quy định lãi suất trong hợp đồng gọi ngay: 1900.6162
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến thư mục tư vấn của công ty chúng tôi, với câu hỏi của bạn chúng tôi xin được giải đáp như sau:
“Điều 469. Thực hiện hợp đồng vay không kỳ hạn
1. Trong hợp đồng vay không kỳ hạn, không tính lãi thì bên cho vay có quyền đòi tài sản, bên vay cũng có quyền trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và có lãi thì bên cho vay có quyền đòi tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lý và nhận tiền lãi cho đến thời điểm nhận tài sản, bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả tiền lãi cho đến thời điểm trả nợ nhưng cũng phải báo trước một thời gian hợp lý cho bên cho vay. Ngoài ra, Điều 468 BLDS 2015, cụ thể như sau:
“Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay phải do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì mức lãi suất đã thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và đề nghị của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp mức lãi suất thỏa thuận vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ mức lãi và có tranh chấp về mức lãi thì mức lãi được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Căn cứ Điều 468, 469 Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể hiểu đối với hợp đồng vay không thời hạn và có lãi thì lãi suất vay do các bên tự thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm đó. Pháp luật quy định lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định là cao nhất đối với hợp đồng vay thế chấp. Vì vậy, không được áp dụng mức lãi suất do ngân hàng thương mại tính để tính lãi suất cao nhất cho hợp đồng vay.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi. Chân thành./.3. Quy định về lãi suất ngân hàng khi cho vay tín chấp?
Chồng tôi có vay tín chấp ngân hàng VP Bank số tiền 90 triệu với lãi suất 27% trong 3 năm. Tôi hỏi có quy định nào về lãi suất ngân hàng không? Cảm ơn bạn rất nhiều!
Tổng đài tư vấn pháp luật dân sự: 1900.6162
Luật sư tư vấn:
“Điều 91, Luật các tổ chức tín dụng của Quốc hội, số 47/2010/QH12 về lãi suất và các loại phí trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng:
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thoả thuận về lãi suất và phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
Theo quy định trên, khi vay vốn tại ngân hàng thương mại, các bên có quyền thỏa thuận về mức lãi suất. Nếu được tự do thỏa thuận về lãi suất vay thì họ vẫn phải tuân theo quy định của pháp luật dân sự về lãi suất. Cụ thể, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự như sau:
“Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay phải do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì mức lãi suất đã thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của số tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và đề nghị của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp mức lãi suất thỏa thuận vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ mức lãi và có tranh chấp về mức lãi thì mức lãi được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Hiện lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố vẫn là 9%/năm. Như vậy, lãi suất tối đa của khoản vay sẽ không vượt quá 13,5%/năm. Ngoài ra, trường hợp chồng bạn vay vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế theo quy định tại Thông tư số 39/2016/TT-NHNN thì mức lãi suất tối đa sẽ là:
“Điều 13. Lãi suất cho vay
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn:a) Phục vụ lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
b) Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương mại;
c) Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
d) Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ;
đ) Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật công nghệ cao".
Như vậy, trong trường hợp của bạn, lãi suất cho vay của các ngân hàng được quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng 2010, điều Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 hoặc Khoản 2 Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN.4. Mức lãi suất cho vay như thế nào là hợp pháp ?
Xin chào Luật Minh Khuê! Các Luật sư có thể tư vấn cho tôi biết cho vay với lãi suất 5%/tháng thì có phải là cho vay nặng lãi hay không? Tháng 7/2014, một người bạn của tôi có vay số tiền là 41 triệu đồng nhưng đến nay bạn ấy vẫn chưa trả gốc và lãi cho tôi. Trong thời gian vay tôi có làm hợp đồng trả góp được hai bên ký kết. Tôi đang tìm chỗ ở nhưng đã chuyển đi nơi khác. Vậy nếu kiện bạn có thắng kiện không? Tư vấn cho tôi, xin vui lòng. Xin cảm ơn quý công ty!
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, mức lãi suất hợp pháp mà các bên được ủy quyền thỏa thuận trong hợp đồng vay cầm cố tài sản được quy định cụ thể tại Điều 468, cụ thể như sau:
“Điều 468. Lãi suất
1. Lãi suất vay phải do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì mức lãi suất đã thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và đề nghị của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trong trường hợp mức lãi suất thỏa thuận vượt quá mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi nhưng không xác định rõ mức lãi và có tranh chấp về mức lãi thì mức lãi được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Bạn cho vay với lãi suất 5%/tháng, hay 60%/năm. Như vậy, mức lãi suất cao gấp 3 lần mức cho phép của pháp luật nên là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức lãi suất này thấp hơn 10 lần so với mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định nên bạn sẽ không bị phạt mà chỉ bị xử phạt hành chính. Với hành vi này, bạn có thể bị xử phạt hành chính theo điểm d khoản 3 điều 11 nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; Phòng chống tệ nạn xã hội; phòng chống cháy nổ; phòng, chống bạo lực gia đình:
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: Cho vay tiền có cầm cố tài sản mà lãi suất vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay.
Nếu trong hợp đồng vay cầm cố các bên có thỏa thuận về mức lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước thì khi xảy ra tranh chấp, nhà nước sẽ không công nhận và bảo vệ quyền lợi của bạn đối với khoản lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản. Trong trường hợp Bên vay không trả được nợ theo Hợp đồng vay thì Bên vay có các nghĩa vụ sau đây theo quy định tại Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể như sau:
“Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản tiền tệ phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả lại vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Nếu bên mượn không trả được đồ thì có thể trả bằng tiền mặt theo giá trị của đồ đã mượn tại địa điểm và thời điểm trả, nếu được bên cho mượn đồng ý. 3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc trụ sở đăng ký của bên cho vay, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Trong trường hợp cho vay không lấy lãi mà đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời hạn chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
5. Trong trường hợp khoản vay có trả lãi mà đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả khoản lãi như sau: a) Lãi trên nợ gốc theo mức lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà chưa trả; trong trường hợp chậm trả còn phải trả tiền lãi theo mức quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
Như vậy, nếu bên vay không trả nợ thì bạn có thể khởi kiện yêu cầu bên vay thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc nếu phát hiện có hành vi bội tín chiếm đoạt tài sản thì có thể đến cơ quan công an để tố giác tội phạm. Cơ quan công an sẽ tiến hành xác minh các tình tiết liên quan.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi đối với câu hỏi của bạn. Chúc may mắn!5. Làm thế nào để tính lãi cho các khoản vay sinh viên?
Kính chào công ty luật Minh Khuê, tôi có một vài thắc mắc mong được tư vấn giúp. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên mẹ tôi phải làm thủ tục vay tiền sinh viên. Tôi đã học trong năm học 2009 - 2012 và hiện đang tốt nghiệp. Em gái tôi học năm học 2012 - 2016 là lớp 4. Hai chị em vay cùng một sổ vay vậy xác định lãi suất như thế nào? Cám ơn!
Trả lời
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chúng tôi, Đối với câu hỏi của bạn chúng tôi xin được giải đáp như sau:
Căn cứ Quyết định số 157/2007QĐ-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 853/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh mức cho vay, lãi suất cho vay sinh viên và các văn bản có liên quan, quy định như sau:
- Lãi suất tiền vay được tính như sau:
Các khoản vay giải ngân từ ngày 01 tháng 10 năm 2007 đến ngày 31 tháng 7 năm 2011 áp dụng lãi suất ghi nợ là 0,5%/tháng.
Đặc biệt, các khoản vay giải ngân được hỗ trợ lãi suất từ ngày 1/5/2009 đến 31/12/2009 trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân số tiền vay đó, chỉ phải trả lãi suất 0,17%/tháng.
Các khoản vay giải ngân từ ngày 1/8/2011 sẽ áp dụng lãi suất bên nợ là 0,65%/tháng.
Lãi suất nợ quá hạn bằng 130% lãi suất cho vay. Ưu đãi lãi suất khi trả nợ trước hạn: Trong trường hợp bên vay trả nợ trước hạn theo cam kết trong hợp đồng tín dụng thì lãi suất phải trả sẽ được giảm xuống. Ngân hàng Chính sách xã hội ấn định lãi suất ưu đãi trong trường hợp trả nợ trước hạn.
- Về việc trả nợ vay:
Trong quá trình giải ngân số tiền vay của học kỳ trước, NHCSXH nơi cho vay và người vay thỏa thuận về thời hạn trả nợ của toàn bộ số tiền vay. Người vay phải trả nợ gốc và lãi lần đầu khi sinh viên đi làm và có thu nhập, nhưng trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày sinh viên hoàn thành khóa học.
Số tiền vay có thể được trả lại không quá 6 tháng một lần phù hợp với khả năng trả nợ của người vay theo thỏa thuận giữa ngân hàng và người vay. Kỳ hạn trả nợ là khoảng thời gian tính từ ngày người đi vay trả hết khoản vay đầu tiên đến ngày trả đủ gốc và lãi. Đối với chương trình đào tạo 1 năm, thời gian trả nợ tối đa bằng thời gian giải ngân vốn vay.
Vui lòng tham khảo nội dung Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, Gia hạn trả nợ, Chuyển nợ quá hạn như sau:
Trong thời hạn trả nợ cuối cùng, nếu người vay gặp khó khăn trong việc trả nợ thì có văn bản đề nghị gia hạn nợ, Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ xem xét gia hạn nợ cho người vay; thời gian gia hạn nợ tối đa bằng 1/2 thời gian trả nợ.
Nếu người vay không trả nợ đúng hạn theo quy định về thời hạn trả nợ cuối cùng và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ chuyển thành nợ quá hạn. Ngân hàng Chính sách xã hội phối hợp với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện các biện pháp thu hồi nợ. Ngân hàng Chính sách xã hội quy định cụ thể về điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn.
Nội dung bài viết:
Bình luận