Thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cứu nước, tiếp đến là hàn gắn vết thương chiến tranh và tìm kiếm cơ chế, mô hình phát triển, đến nay Việt Nam đã đạt được nhiều dấu ấn trên hầu hết các lĩnh vực. Từ một nước thuần nông, đại đa số người dân sống ở nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã chuyển mình thành nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Cùng với tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững giúp nước ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhìn lại 75 năm qua, chúng ta có thể phác họa một vài nét về công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta như sau:
1. Thời kỳ 1945-1954: Tăng gia sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế kháng chiến
Thời kỳ 1945-1954 là thời kỳ đầu tiên xây dựng chế độ kinh tế mới ở Việt Nam và là thời kỳ khó khăn, gian khổ nhất vì vừa phải chống giặc, vừa phải phát triển kinh tế trong điều kiện thiếu thốn đủ bề. Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn này là kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất nhỏ và tiềm lực thấp. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ là 60 VND, tức 35 USD.
Kinh tế nông thôn và sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong thời kỳ này. Ngoài việc khuyến khích nông dân tích cực tăng gia sản xuất, chính phủ đã từng bước thực hiện các chính sách về đất đai như giảm địa tô, giảm thu nhập. Với chủ trương toàn dân tăng gia sản xuất, được sự giúp đỡ nhiệt tình của chính quyền, các cơ quan, đơn vị bộ đội nên nông nghiệp trong thời kỳ kháng chiến được bảo đảm ổn định, cung cấp đủ lương thực cho kháng chiến. Ở vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp được mở rộng, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Nông nghiệp đã làm tròn nhiệm vụ là nền tảng của kinh tế kháng chiến, góp phần to lớn giải quyết nạn đói năm 1945, 1946.
Việc xây dựng công nghiệp và thủ công nghiệp, nhất là công nghiệp quốc phòng đã góp phần lớn vào đáp ứng nhu cầu chiến đấu và tiêu dùng. Từ 1946 đến 1950, sản xuất 20.000 tấn than cốc, 800 kg antimon; từ 1950 đến cuối 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc; 43 tấn chì; những năm 1950-1954 sản xuất 169,3 triệu mét vải; 31,7 nghìn tấn giấy…
Chính sách của chính phủ khuyến khích mở rộng thương mại cho phép hàng hóa lưu thông tự do trong cả nước. Kết quả là một số văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định của Chính phủ ngày 2-10-1945 về việc bãi bỏ các luật hạn chế kinh doanh dưới thời Pháp và Nhật; Lệnh của Chủ tịch nước ngày 22-9-1945 bãi bỏ độc quyền của Pháp Lệnh ngày 19-9-1945 của Bộ Quốc dân kinh tế bãi bỏ mọi hạn chế lưu thông các mặt hàng thông dụng của kinh tế và đời sống như gỗ, giấy, lương thực, thực phẩm . Mặc dù hàng hóa thời kỳ này khan hiếm nhưng người dân vẫn có thể dễ dàng mua sắm những vật dụng thiết yếu hàng ngày tại các chợ. Tuy nhiên, có thể nói đây là thời kỳ gay gắt nhất về lạm phát. Chỉ số giá bán lẻ bình quân hàng năm thời kỳ 1945-1954 tăng khoảng 66%.
Cùng với việc ra sức đẩy mạnh sản xuất, sự nghiệp giáo dục - chống nạn mù chữ được coi là một trong những nhiệm vụ chính, đi đôi với chống giặc ngoại xâm. Từ 1946 đến 1954, 10,5 triệu người đã thoát khỏi nạn mù chữ. Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo vệ sức khỏe nhân dân luôn được Đảng và chính phủ coi trọng hàng đầu. Trong thời kỳ này, số lượng cơ sở khám chữa bệnh trên cả nước còn ít, chủ yếu dưới hình thức phòng khám - năm 1943, cả nước có 771 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có 421 phòng khám, 212 nhà hộ sinh và 39 bệnh viện. học viện.
2. Thời kỳ 1955 - 1975: khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thực hiện các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất
Trong thời kỳ này, Chính phủ đã phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bắt đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật. của các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là công nghiệp và nông nghiệp. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD. Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 có 17.000 hợp tác xã nông nghiệp, tăng 12.200 hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực quy gạo đạt 5,49 triệu tấn, tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn lợn 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con.
Sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển theo hướng công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được khôi phục và xây dựng mới. Năm 1975, giá trị tổng sản xuất công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân hàng năm thời kỳ 1956-1975 tăng 14%/năm.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và phát triển nhanh chóng, làm hậu cần sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ thời kỳ 1955-1975 tăng 4,3%/năm, thấp hơn nhiều so với mức tăng 66% của thời kỳ 1945-1954.
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cũng được cải thiện. Các hoạt động giáo dục đạt được nhiều thành tựu to lớn. Số người đi học năm 1975 đạt 6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955. Bình quân trên 1 nghìn người, năm 1955 có 949 người đi học, năm 1975 có 2.769 người, gấp 2,9 lần. Nhờ sự cố gắng, nỗ lực của ngành y tế, y tế nông thôn miền Bắc thời kỳ này đã có những chuyển biến rõ rệt. Số bệnh viện được đầu tư xây dựng ở miền Bắc tăng từ 57 bệnh viện, 17 trạm y tế năm 1955 lên 442 bệnh viện và 645 bệnh xá năm 1975. Số lượng cán bộ y tế cũng tăng nhanh, từ 108 bác sĩ năm 1955 lên 5.684 bác sĩ năm 1975. Năm Năm 1975, thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức miền Bắc là 27,6 đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của gia đình xã viên HTXNN phía Bắc là 18,6 đồng (gấp 2,6 lần).
3. Giai đoạn 1976-1985: kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp
Thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn. Quan trọng: Từng bước khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải ở miền Bắc, xây dựng lại các vùng nông thôn miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Trong giai đoạn này, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống quy phạm mệnh lệnh áp đặt từ trên xuống. Các công ty hoạt động trên cơ sở quyết định của các cơ quan chính phủ có liên quan và mệnh lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm thời kỳ 1977-1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Phân theo loại hình sở hữu, sở hữu nhà nước tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân tăng 0,71%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này yếu và kém hiệu quả. Nông, lâm nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP thời kỳ này) nhưng chủ yếu dựa vào độc canh lúa nước. Công nghiệp được định hướng đầu tư nên có tốc độ tăng trưởng tốt hơn nông nghiệp, nhưng tỷ trọng của ngành này trong tổng thể nền kinh tế còn thấp (chiếm 39,74% GDP), chưa phải là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, mặc dù trong giai đoạn đầu xây dựng hợp tác xã đã từng bước chiếm lĩnh thị trường, qua đó hạn chế nạn đầu cơ tích trữ và tình trạng loạn giá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm. Kinh tế tăng trưởng chậm, gây mất cân đối cung - cầu (cung thiếu hụt), đồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc cải cách tiền lương năm 1985 là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất mạnh. 1976-1985, chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa mù chữ và đẩy mạnh bồi dưỡng văn hóa là nhiệm vụ ưu tiên. Đến đầu năm 1978, tất cả các tỉnh, thành phố phía Nam hầu như đã xóa được nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định mù chữ, có 1.323,7 nghìn người đã xóa mù chữ. Đào tạo nghề cũng đang phát triển mạnh mẽ. Năm 1977, cả nước chỉ có 260 trường TCCN, với trên 117.000 học sinh và 7.800 giáo viên. Năm 1985, số trường TCCN là 314 trường, với số học sinh theo học là 128.500 và 11.400 giáo viên (tăng 9% về số học sinh và 44,9% về số giáo viên so với năm trước). ).
Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số giường bệnh trong các cơ sở y tế tăng từ 89.400 giường năm 1976 lên 114.700 giường năm 1985. Số lượng nhân viên y tế tăng từ 110.900 năm 1976 lên 160.200 năm 1985, khi số lượng bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người. Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập đầu người, tháng của gia đình làm công tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu người một tháng của hộ xã viên HTX nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên 505,7 đồng, nhưng do lạm phát tăng cao nên đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thiếu thốn.
Hà Nội rực rỡ cờ hoa chào mừng 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
4. Giai đoạn 1986-2000: Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế
Nhận thức được những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, nhà nước đã bắt đầu thực hiện một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, có sự quản lý của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng nhanh chóng được đông đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng, đánh thức tiềm năng và sức sáng tạo của các loại hình kinh tế để mở rộng sản xuất, tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Trong thời kỳ 1986-2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. So với tốc độ tăng trưởng chung của kinh tế thế giới và sự suy giảm nhanh chóng của các nền kinh tế kế hoạch hóa Đông Âu và Liên Xô trong thời kỳ chuyển đổi sang kinh tế thị trường, tốc độ tăng trưởng trên của Việt Nam là một kết quả đáng ghi nhận. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm 1986; công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đang đi đúng hướng, phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp. , mở đầu thời kỳ đổi mới nông nghiệp, nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần so với năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt 444,8kg, gấp 1,6 lần; xuất khẩu gạo đạt 3.477.000 tấn, gấp hơn 26 lần.
Sản xuất công nghiệp từng bước đi vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 2000 là 11,09%. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư tăng về số lượng và chất lượng. Điện năng sản xuất năm 2000 gấp 4,7 lần năm 1986; sản xuất xi măng gấp 8,7 lần; 25,6 lần thép cán; gấp 3,6 lần thiếc. Sản lượng khai thác dầu thô tăng từ 41.000 tấn năm 1986 lên gần 7,1 triệu tấn năm 1994 và 16,3 triệu tấn năm 2000. Các cơ sở sản xuất công nghiệp đã quan tâm hơn đến chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ tiên tiến, điều chỉnh kế hoạch sản xuất theo nhu cầu thị trường.
Khi sản xuất kinh doanh phục hồi và mở rộng, siêu lạm phát bước đầu được kiềm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng hàng năm ở mức 3 con số trong 3 năm 1986-1988, ở mức hai con số mỗi năm trong giai đoạn 1989-1992, lên mức tăng một con số trong giai đoạn 1993-2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng 349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố, tăng cường. Đến ngày 01 tháng 4 năm 1999, cả nước có 90% số học sinh 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học; 94% dân số từ 15 đến 35 tuổi biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện rõ rệt mức sống của nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người/tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên 295.000 đồng năm 1999. Thu nhập tăng nhanh đã góp phần xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong giai đoạn này. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo toàn cầu của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1% thì năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.
5. Giai đoạn 2001 đến nay: Thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng
Trong giai đoạn này, nước ta đã thực hiện hai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là Chiến lược 2001-2010 và Chiến lược 2011-2020 nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” theo Chính sách phương châm “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ, cùng nhau đấu tranh vì hòa bình, độc lập và phát triển". Tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, kinh tế - xã hội nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tăng trưởng kinh tế liên tục đã đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước kém phát triển và đưa nước ta vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp. Quy mô nền kinh tế ngày càng mở rộng, GDP năm 2019 gấp 12,5 lần năm 2001. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao, bình quân hàng năm thời kỳ 2001 - 2010 tăng 7,26%, xấp xỉ tốc độ tăng trưởng . 7,56%/năm của Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 là thành tựu hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế nước ta thời kỳ này. Giai đoạn 2011-2019, GDP tăng trưởng 6,3%/năm, trong đó năm 2018 tăng 7,08% và là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008. Năm 2008, nước ta ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập thấp để ra nhóm nước và vùng lãnh thổ có thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong khoảng thời gian này. GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt 2.715 USD, gấp 15 lần năm 1990; thu nhập bình quân đầu người/tháng đạt 4.294,5 nghìn đồng, gấp 12 lần năm 2002. Chất lượng tăng trưởng kinh tế chuyển dần sang chiều sâu, thể hiện ở đóng góp của năng suất tổng hợp các nhân tố (PGF) vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng. Năng suất lao động (NSLĐ) được cải thiện rõ rệt. Giai đoạn 2016-2019, năng suất lao động toàn nền kinh tế tăng 5,86%/năm, cao hơn mức tăng 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015. Cơ cấu kinh tế nước ta bước đầu theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành, trình độ công nghệ sản xuất và cơ cấu lực lượng lao động chuyển dịch theo hướng tích cực; Tỷ lệ lao động có tay nghề cao trong các ngành kinh tế ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tổng kim ngạch hàng hóa ngoại thương giai đoạn 2011-2019 đạt 3.100,3 tỷ USD, gấp 20,2 lần giai đoạn 1991-2000 và gấp 3,6 lần giai đoạn 2001-2010. Tỷ trọng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP tăng từ 112,5% năm 2000 lên 142,2% năm 2005; 152,2% năm 2010 và 210,4% năm 2019. Điều này cho thấy nền kinh tế nước ta đang ngày càng mở và tăng trưởng tương đối nhanh, nước ta đã khai thác được thế mạnh của nền kinh tế quốc dân và tranh thủ thị trường toàn cầu. Kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài năm 1988, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2019, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 4.028 dự án với tổng vốn đăng ký 38.951,7 triệu USD, gấp 19,1 lần và 24,3 lần so với giai đoạn 1988-1990. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, có tác dụng to lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo nhiều việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ của nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn này, Thủ tướng Chính phủ đã công bố Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Điều này đã góp phần quan trọng làm nên nhiều kỳ tích trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở nước ta trong thời kỳ này. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới năm 2002 là 28,9%, năm 2018 đã giảm xuống còn 6,7%.
Những dấu ấn trong phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ năm 1945 đến nay khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sự đồng bộ của các chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội. Vị thế của Việt Nam đã thay đổi đáng kể trên thế giới và trong khu vực ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP; là một trong 30 quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu cao nhất và là nền kinh tế xuất khẩu lớn thứ 22 trên thế giới. Việt Nam đã vượt qua các nước Đông Nam Á khác về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đứng thứ 25 trên thế giới về thu hút vốn FDI. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng 10 bậc so với năm trước, xếp thứ 67/141 quốc gia và vùng lãnh thổ; Chỉ số HDI đứng thứ 117/177 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về ngoại giao kinh tế, đến nay đã có hơn 70 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia đàm phán, ký kết và phê chuẩn các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 16 FTA song phương và đa phương. Đáng chú ý, ngày 30/3/2020, Nghị viện Châu Âu đã phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Quốc hội nước ta đã phê chuẩn hiệp định này vào ngày 8/6/2020. Điều này không chỉ giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam mà còn thể hiện Việt Nam chủ động hình thành hệ thống thương mại quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới. Hoạt động đối ngoại ngày càng mở rộng, khẳng định rõ bản lĩnh, bản lĩnh của Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, ngày càng đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển không chỉ ở khu vực ASEAN mà còn trên thế giới.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng lớn bởi đại dịch Covid-19 trong năm 2020. Tuy nhiên, nhờ các biện pháp ứng phó chủ động từ trung ương đến địa phương nên tác động đến sức khỏe của dịch không nặng nề như nhiều nước khác. Ổn định kinh tế vĩ mô và tài khóa duy trì ổn định, với mức tăng trưởng GDP ước tính đạt 1,81% trong 6 tháng đầu năm 2020.
Tóm lại, sau 75 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mặc dù còn những hạn chế, nhưng đất nước ta đã có những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, làm thay đổi căn bản diện mạo của Quốc gia. Từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, qua quá trình nỗ lực, chuyển đổi mô hình, hoàn thiện thể chế và môi trường kinh doanh, hội nhập sâu rộng, nền kinh tế nước ta đã từng bước vươn lên. được xếp hạng trong số các nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới; trở thành nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là cơ sở quan trọng để nước ta tiếp tục hoàn thiện đường lối xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Nội dung bài viết:
Bình luận