Giáo dục Việt Nam trong kinh tế thị trường

Một trong những nội dung quan trọng cần nhận thức rõ là cần xây dựng và hoàn thiện thể chế - cơ chế phù hợp, hiệu quả để phát triển giáo dục và đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, bởi thể chế - cơ chế vừa đóng vai trò nền tảng. giữ vai trò chủ đạo, then chốt đối với sự phát triển giáo dục trong thời kỳ mới.

Kinh tế giáo dục
Kinh tế giáo dục

 I. Bản chất của hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường 

  1. Giáo dục là hàng hóa xã hội và giáo dục là hàng hóa, dịch vụ Hiện nay, vẫn tồn tại hai quan điểm khác nhau (đôi khi đối lập nhau) về hoạt động giáo dục, đặc biệt là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, đó là quan điểm coi giáo dục chỉ là phúc lợi xã hội, coi giáo dục là hàng hóa, dịch vụ. Giáo dục là một lợi ích xã hội: quan điểm này được nhìn nhận từ góc độ quyền và lợi ích của người học và lợi ích của xã hội. Trong đó mọi người đều có quyền bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng giáo dục; Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp và đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người. Vì vậy, giáo dục được xếp vào lĩnh vực trợ giúp xã hội, được Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Quan điểm này đã không đề cập đến các lợi ích cá nhân khác nhau của mỗi người học và kéo theo đó là trách nhiệm cá nhân đối với việc học; Chưa đề cập đến cơ chế cung ứng giáo dục như thế nào là hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường. Giáo dục là hàng hóa và dịch vụ: Quan điểm này cho rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường, giáo dục – đào tạo, nhất là giáo dục đại học được coi là một ngành dịch vụ; DVGD có những điểm giống và khác nhau với các hàng hóa dịch vụ (HHDV) khác. Vì dịch vụ giáo dục có đặc điểm là đem lại “lợi ích tràn trề cho xã hội”... (lợi ích do giáo dục mang lại không chỉ cho riêng người học mà còn cho cả xã hội), cho nên HHDV giáo dục về cơ bản nói chung không phải là hàng hoá tiêu dùng (HHTD) cá nhân thuần túy, cũng không phải là HHTD tập thể thuần túy, mà về cơ bản là HHTD bán tập thể. Xét cả về lý luận và thực tế, HHDV giáo dục - đào tạo nói chung và nhất là giáo dục đại học không đáp ứng đầy đủ hoàn toàn các đặc tính cơ bản của HHDV công cộng thuần túy (HHDV công cộng thuần túy có hai đặc tính cơ bản là không có sự cạnh tranh - Non - rivalrous; và đặc tính không loại trừ - non - excludable). Giáo dục - đào tạo chứa đựng cả lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, tuy nhiên tương quan giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân ở các cấp bậc học là khác nhau. Tính chất công cộng, lợi ích công cộng thể hiện đậm nét và chiếm ưu thế ở các bậc học thấp, giáo dục cơ bản, giáo dục phổ cập bắt buộc (tại các cấp và các hình thức giáo dục này tính chất cạnh tranh và tính chất loại trừ yếu; thậm chí nếu là giáo dục bắt buộc sẽ không có cạnh tranh và không có loại trừ); còn tính chất cá nhân, lợi ích cá nhân tăng lên ở các bậc học cao, như giáo dục đại học và gắn với đào tạo nghề nghiệp, gắn với mục tiêu cá nhân đầu tư để có nghề nghiệp nhằm nâng cao thu nhập của mỗi cá nhân (đối với các loại hình đào tạo này tính chất loại trừ và tính chất cạnh tranh cao hơn nhiều). Chính vì vậy, xét về phương diện chung cung ứng HHDV, giáo dục - đào tạo về cơ bản không phải là HHDV công cộng thuần túy, mà là HHDV công cộng không thuần túy, và tính chất này ở các cấp bậc học và hình thức đào tạo có khác nhau. Mức độ, quy mô và hình thức Nhà nước đáp ứng tính công cộng trong giáo dục - đào tạo (cũng chính là mức độ đảm bảo phúc lợi xã hội trong giáo dục - đào tạo), và việc phát triển hàng hóa dịch vụ giáo dục với quy mô và phạm vi nào phụ thuộc vào quan điểm, cơ chế chính sách và tiềm lực thực tế của mỗi nước, đồng thời cũng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, người học và xã hội trong phát triển giáo dục - đào tạo. Trên thế giới, xu thế phát triển chung coi giáo dục đại học là lĩnh vực mang tính hàng hóa dịch vụ cao, và do đó tiếp cận cơ chế thị trường sâu rộng hơn so với các cấp, bậc giáo dục phổ cập, giáo dục cơ bản, giáo dục bắt buộc. Do đó đối với giáo dục đại học, ở nhiều nước đầu tư công (của Nhà nước) thường có thể chiếm tỷ trọng ít hơn so với đầu tư công trong giáo dục phổ thông. Điều đáng lưu ý là tại một số nước đầu tư công cho giáo dục đại học chiếm tỷ trọng không cao hơn, thậm chí ít hơn so với đầu tư tư nhưng lại có nền giáo dục đại học có chất lượng thuộc loại hàng đầu thế giới, như Mỹ, Canada, Anh, Úc, Nhật Bản, Israel, Korea, New Zeland… 
  2. Tác động của kinh tế thị trường 

- cơ chế thị trường đối với Giáo dục

(1) Về lý luận và thực tiễn thấy rõ tác động của kinh tế thị trường lên giáo dục - đào tạo ở những mặt chủ yếu sau: (i)- Hình thành mục tiêu - tiêu chí giáo dục gắn với yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành… đối với giáo dục đại học trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đi vào phát triển kinh tế rti thức. (ii)- Sự hình thành các giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị con người thích ứng với yêu cầu của vai trò chủ thể phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. (iii)- Hình thành nội dung, chương trình và phương pháp dạy học thích ứng với yêu cầu phát triển và biến đổi nhanh chóng của kinh tế thị trường và cách mạng khoa học và công nghệ. (iv)- Nhu cầu giáo dục gắn trực tiếp và hiệu quả hơn với nhu cầu phát triển mọi mặt của xã hội, gắn bó hữu cơ với cơ cấu và sự chuyển đổi của thị trường nhân lực trong nước và quốc tế, đặc biệt là thị trường lao động có kỹ năng. (v)- Định hình thị trường hàng hóa, dịch vụ giáo dục và đào tạo, tạo sự cạnh tranh trong giáo dục; khuyến khích quốc tế hóa quá trình giáo dục, nhất là giáo dục đại học, xây dựng các chuẩn mực, tiêu chuẩn giáo dục quốc tế và khu vực. (vi)- Thay đổi vai trò của nhà nước và vai trò của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục, thay đổi cơ chế phát triển giáo dục, thay đổi vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia giáo dục (đa dạng hóa các chủ thể tham gia đầu tư và cung cấp) dịch vụ giáo dục)… Những tác động này có cả mặt tích cực và tiêu cực. Từ thực tiễn và phân tích, có thể kết luận rằng các yếu tố và quá trình giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, vận hành trong các điều kiện thể chế của kinh tế thị trường; kinh tế thị trường - cơ chế thị trường tác động một cách khách quan, phổ biến và toàn diện đến mọi yếu tố, quá trình và các chủ thể tham gia vào giáo dục và đào tạo, với các mức độ khác nhau, có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có những hạn chế, bất lợi, làm cho giáo dục trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều đặc điểm khác so với giáo dục trong nền kinh tế bao cấp. 

2) Cần nhận thức các yếu tố và quá trình giáo dục “gia nhập” KTTT ở các mức độ khác nhau. Nhìn rộng ra, có thể chia thành ba cấp độ: cấp độ 1, không chấp nhận hoặc không thể chấp nhận được tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường; cấp độ 2, tham gia kinh tế thị trường, cơ chế thị trường với mức độ hạn chế khác nhau, không hoàn toàn theo cơ chế thị trường; mức độ 3, tham gia đầy đủ nền kinh tế thị trường, cơ chế thị trường. Thực chất là sự tương quan về vai trò giữa nhà nước và thị trường trong phát triển giáo dục đối với các yếu tố và quá trình giáo dục khác nhau. Điều này được nhìn thấy trong giáo dục đại học. 

  1. Giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.

 Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế chủ yếu khách quan, sự phát triển giáo dục và đào tạo trên thế giới và ở Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó, với những nét riêng và nét tương đồng so với tất cả các lĩnh vực khác. 

1) Hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo được thực hiện với nhiều cấp độ và hình thức; từ cấp độ toàn cầu với các quy định của WTO-GATS và UNESCO, cấp độ khu vực, cấp độ giữa các quốc gia, giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo đến cấp độ giữa chuyên gia và cá nhân. Các hình thức hợp tác và hội nhập quốc tế rất phong phú và đa dạng, nhưng có thể khái quát thành hai loại hình: phi lợi nhuận và vì lợi nhuận. Hình thức vì lợi nhuận thường được thực hiện theo GATS với 4 hình thức chính: cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo xuyên biên giới; tiêu dùng ở nước ngoài; sự hiện diện cá nhân; hiện diện thương mại. Trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, các quốc gia, chủ thể và cơ sở giáo dục và đào tạo có những mục đích tương đồng nhưng cũng khác nhau, nhất là về lợi thế giữa nước “xuất khẩu” và nước “nhập khẩu” giáo dục. và Đào tạo. Vì vậy, quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa giáo dục và đào tạo chứa đựng cả hai mặt hợp tác và cạnh tranh giữa các vùng, các quốc gia và giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo. Hiện nay, xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế có hiệu quả ngày càng được đẩy mạnh và coi trọng. 2) Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo mang lại những kết quả và tác động tích cực rất quan trọng, nhưng cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực không thể xem thường, nhất là đối với các nước ở “thế yếu hơn”, nhất là về chất lượng hợp tác quốc tế có thể không đáp ứng yêu cầu, bị cạnh tranh thị phần mạnh mẽ trên thị trường giáo dục, có thể làm tổn hại đến bản sắc và vị thế của giáo dục quốc dân... Vì vậy, để hợp tác và hội nhập giáo dục và đào tạo hiệu quả, có chất lượng, cần có chiến lược bài bản và hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp. 

  1. Vận dụng cơ chế thị trường để phát triển giáo dục Việc vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục - đào tạo được thể hiện ở 3 cấp độ: cấp độ hệ thống giáo dục - đào tạo; cấp học của cơ sở giáo dục - đào tạo; cấp độ của các yếu tố và quy trình giáo dục - đào tạo cụ thể. 

1) Ở cấp độ hệ thống: Cho đến nay, chưa có nước nào trên thế giới coi giáo dục ở nước mình và đối với học sinh, sinh viên là một ngành kinh tế - thương mại, thậm chí có nước coi giáo dục là một ngành dịch vụ. Nhưng yếu tố kinh tế và hiệu quả đầu tư ngày càng quan trọng. Đồng thời, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế từng phân hệ thống của hệ thống giáo dục - đào tạo lại được vận dụng cơ chế thị trường ở những cấp độ khác nhau. Ví dụ, hệ thống trường công hướng vào xuất khẩu giáo dục - đào tạo (tại chỗ hay đầu tư ra nước ngoài), hệ thống trường tư vận hành theo cơ chế thị trường, gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu kinh tế (lợi nhuận). Điều này được thể hiện rất rõ trong chiến lược phát triển giáo dục đại học của các nước tiên tiến nhằm giành và giữ thị phần cao trong thị trường giáo dục đại học quốc tế như Mỹ, Anh, Úc…; đồng thời một số nước mới phát triển, mới nổi, hoặc đang phát triển cũng có chiến lược phát triển giáo dục đại học với mục tiêu vươn lên thành trung tâm đào tạo nhân lực trình độ cao của khu vực và quốc tế, chiếm thị phần ngày càng tăng trên thị trường đào tạo nhân lực quốc tế như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malayxia, Singapore…Hiện nay thị trường giáo dục đại học trên thế giới phát triển rất nhanh, với 4,3 triệu sinh viên du học [5] và tổng giá trị kinh phí lên tới khoảng hơn 90 tỷ USD/năm. Mỹ là nước chiếm thị phần lớn nhất, theo Báo cáo thường niên của Viện Giáo dục quốc tế (Institute of International Education - IIE), các trường ĐH Mỹ đã đón đạt mức cao kỷ lục là 819.644 SV nước ngoài trong năm học 2012-2013, tức là tăng 7,2% so với năm trước [6]. Riêng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đã đóng góp gần 24 tỷ USD vào nền kinh tế Hoa Kỳ. Ba quốc gia tiếp tục có số lượng sinh viên lớn nhất tại các cơ sở giáo dục của Mỹ là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc, chiếm 49% tổng số sinh viên nước ngoài. Riêng tại Việt Nam, theo báo cáo năm 2012, số lượng sinh viên Việt Nam du học trong năm học 2011-2012 đã tăng lên 106.104, tại 49 quốc gia [7] . Bộ Tài chính dự kiến ​​mỗi năm người Việt chi khoảng 1 tỷ USD đến 1,6 tỷ USD để cho con đi du học. Tại Hoa Kỳ, số du học sinh Việt Nam theo học trong năm học 2012-2013 là 16.098, tăng 3,4% so với năm học 2011-2012, tiếp tục đứng vị trí thứ 8 về số lượng du học sinh theo học tại Hoa Kỳ. Hoa Kỳ. Mỹ. Năm 2013, gần 100 trường đại học và cao đẳng Hoa Kỳ đã tham gia Education Expo tại TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng. Tại châu Âu, ông khẳng định Vương quốc Anh là 'đầu tàu' trong giáo dục đại học quốc tế khi có 34.660 sinh viên Mỹ theo học tại Vương quốc Anh trong năm học 2011-2012, tăng 4,5 lần so với các năm học trước. Điều này có nghĩa là Vương quốc Anh là điểm đến du học số một của sinh viên Mỹ [5]. 

2) Đối với cấp cơ sở giáo dục - đào tạo: Trong điều kiện kinh tế thị trường, mức độ tiếp cận cơ chế thị trường cũng rất khác nhau. Có thể khái quát thành bốn loại hình cơ sở giáo dục-đào tạo như sau: (a) - cơ sở công lập được bao cấp hoàn toàn; (b)- Cơ sở công lập hoạt động độc lập; (c)- Cơ sở ngoài công lập có thu, sự nghiệp; d)- cơ sở ngoài công lập có thu. Về nguyên tắc, các loại hình cơ sở giáo dục này tuy khác nhau về hình thức sở hữu, tính chất kinh tế nhưng phải giống nhau về mục tiêu giáo dục, đào tạo. Trên thực tế, cơ chế thị trường được áp dụng ở tất cả các loại trường nói trên với các cấp học khác nhau. Hiện nay, trên thế giới đang có xu hướng phát triển mạnh các loại hình cơ sở giáo dục - đào tạo kết hợp nguồn lực công lập và ngoài công lập và cơ chế vận hành, vì lợi nhuận và phi lợi nhuận, nhằm phát huy có hiệu quả thế mạnh, lợi thế của các cơ sở giáo dục - đào tạo. nhiều loại hình khác nhau trong phát triển giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. 

3) Đối với mức độ của các yếu tố, quá trình giáo dục - đào tạo: Các yếu tố, quá trình giáo dục - đào tạo tham gia hoặc vận dụng cơ chế thị trường rất đa dạng, có ý nghĩa khác nhau, có ý nghĩa khác nhau. Có thể trực tiếp, có thể gián tiếp. Mức độ vận dụng cơ chế thị trường đối với các nhân tố và quá trình giáo dục - đào tạo phụ thuộc vào trình độ giáo dục và đào tạo, loại hình cơ sở giáo dục - đào tạo nêu trên cũng như đặc điểm, tính chất của cơ sở giáo dục và đào tạo. quy trình và chính sách cụ thể. Đối với giáo dục đại học trên thế giới, tính chất bao cấp của nhà nước ngày càng giảm (trừ các đối tượng được hưởng chính sách), phần chi phí đào tạo do người học và xã hội gánh chịu ngày càng tăng, cũng đồng nghĩa với việc tăng cường sử dụng cơ chế thị trường. Đó không chỉ là thiếu nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học mà còn là “tư lợi” đối với giáo dục đại học và động lực, hiệu quả của phát triển giáo dục đại học. Việc vận dụng cơ chế thị trường trong giáo dục có những mức độ khác nhau, không chỉ phụ thuộc vào tính chất đặc thù chung của giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường, mà còn rất quyết định ở mức độ thể chế kinh tế thị trường, chính sách và cơ chế kinh tế thị trường. cơ chế phát triển giáo dục của mỗi quốc gia. 

II. Thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

  1. Khái niệm thể chế 

Từ điển tiếng Việt định nghĩa thể chế như sau: “Là những quy tắc, luật lệ của một chế độ xã hội mà mọi người phải tuân theo”. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, thể chế là những quy định mà theo đó các cá nhân, công ty và nhà nước tương tác với nhau, “thể chế được coi là yếu tố chính quyết định sự phát triển lâu dài của một quốc gia”. Thể chế là một khái niệm rộng, được định nghĩa theo nghĩa rộng, bao gồm các luật chơi chính thức hoặc không chính thức cấu thành các quy tắc ứng xử của con người và tổ chức. Việc xây dựng thể chế phù hợp là một trong những tiền đề - điều kiện để phát triển hiệu quả và bền vững. Một thể chế thích ứng, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho đổi mới và phát triển, nhưng một khi thể chế không còn thích ứng, nó có thể trở thành một phanh hãm mọi sức sáng tạo, khát vọng, tinh thần và hiệu quả hoạt động của các chủ thể. Bản thân thể chế không phải là bất biến mà phải liên tục được đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa ngày càng cao của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển. Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng ta được nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: “Coi việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một khâu đột phá chiến lược”. Thể chế có thể được phát biểu một cách rất khái quát: thể chế bao gồm một cấu trúc có hệ thống của các chủ thể và các cơ chế (quy tắc) chi phối sự tương tác giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động theo những mục tiêu xác định. Như vậy, Thể chế là một cấu trúc thống nhất bao gồm các chủ thể tham gia (được gọi là người chơi), các quy tắc chi phối các hoạt động và tương tác giữa các chủ thể (được gọi là luật chơi) và nội dung hoặc lĩnh vực của môi trường mà các chủ thể tham gia. và luật chơi hoạt động (gọi là sân chơi). 

  1. Tổ chức phát triển giáo dục Thể chế phát triển giáo dục là một tiểu phân hệ của thể chế phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, có đặc thù riêng của lĩnh vực giáo dục. Về cơ cấu, tổ chức phát triển giáo dục bao gồm các thành phần chính sau:

 1) Cơ quan, đơn vị hoạt động giáo dục và cung ứng dịch vụ giáo dục. Trường hợp Nhà nước đóng vai trò định hướng - điều tiết. Vai trò của các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư… 2) Hệ thống giáo dục; các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và liên kết hoạt động giáo dục, cung ứng dịch vụ giáo dục. 3) Hệ thống luật pháp và cơ chế vận hành giáo dục; Trong điều kiện hội nhập quốc tế, đó còn là các cơ chế, quy tắc và “luật chơi” quốc tế (song phương hoặc đa phương). 4) Cơ chế thị trường và vai trò của cơ chế thị trường Cơ chế phát triển sư phạm là cơ chế quy định mối quan hệ tương tác tổng hợp giữa các chủ thể, nhân tố và quá trình nhằm bảo đảm phát triển giáo dục - đào tạo theo đúng định hướng và mục tiêu đã xác định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thể chế giáo dục phát triển được hình thành trên cơ sở sự thay đổi và hình thành những chức năng mới của các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục. i) Thay đổi về chức năng của các chủ thể: Trong cơ chế thị trường, cơ cấu và vai trò của các chủ thể tham gia vào quá trình GD - ĐT đã có những thay đổi rõ rệt: - Nhà nước: tập trung vào 3 nhiệm vụ quản lý Nhà nước chính; là nhà cung cấp tài chính lớn nhất; đồng thời bảo đảm các chính sách xã hội trong phát triển giáo dục. - Đa dạng hóa các chủ đề và cơ chế cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo (công lập, ngoài công lập, quốc doanh, nước ngoài, lâm nghiệp và lâm nghiệp,...); Tăng cường vai trò tự chủ của các cơ sở giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. - Đa dạng hóa các chủ thể cung cấp kinh phí và nguồn lực cho Giáo dục - Đào tạo. - Vị trí, vai trò của người học cũng thay đổi, trách nhiệm tăng lên (cả về học tập và chi phí). - Vai trò của xã hội được nâng lên đáng kể (vừa là chủ thể phát triển GD-ĐT, vừa là “đối tác” góp phần cùng Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và kiểm định giáo dục, giới tính, v.v.) ). - Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế với sự thay đổi về cơ cấu và chức năng của các ngành học, từ lý luận đến thực tiễn cho thấy xu hướng kết hợp mạnh mẽ các lực lượng của Nhà nước với các mặt tích cực của cơ chế thị trường đang diễn ra mạnh mẽ. trong sự phát triển của giáo dục. ii) Hình thành cơ chế mới để phát triển giáo dục: Trong những năm gần đây, trên thế giới ngày càng hình thành và phát triển mô hình quản lý công mới (New Public Management) mà bản chất là đặt sự vận động và phát triển của các lĩnh vực dịch vụ công trong mối tương tác giữa Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự. Cơ chế phát triển giáo dục có những đặc điểm chung với các lĩnh vực dịch vụ công khác, nhưng cũng có những đặc điểm riêng vì Giáo dục - Đào tạo không phải là một dịch vụ công thuần túy. Cơ chế phát triển GD - ĐT nêu trên được hình thành là một yêu cầu khách quan, nhưng nội dung cụ thể ở mỗi nước có khác nhau, đối với mỗi bậc học, loại hình đào tạo cũng khác nhau tuỳ theo điều kiện, trình độ phát triển và đặc thù. . chính sách của mỗi quốc gia. Đối với giáo dục đại học, do giảm tính chất “công cộng” của HHDV và tăng tính chất “tư lợi” nên sự kết hợp giữa vai trò của Nhà nước với vai trò của thị trường và vai trò của người học, của xã hội mạnh mẽ hơn trong giáo dục phổ cập bắt buộc. 

III. Xây dựng và hoàn thiện thể chế - cơ chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế 

  1. Về nhận thức Để xây dựng và hoàn thiện thể chế - cơ chế phát triển giáo dục trong thời kỳ mới, cần có nhận thức, quan điểm đúng đắn về phát triển giáo dục, thích ứng với điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Nó bao gồm các yếu tố quan trọng sau: 1) Phải nhận thức rõ bản chất, chức năng, bản chất của giáo dục trong sự vận động và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhất là đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Giáo dục và đào tạo mang lại cả lợi ích công và tư; cả hàng hóa xã hội và hàng hóa dịch vụ; hàng hóa và dịch vụ cao hơn trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. 2) Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự tồn tại và phát triển của thị trường hàng hóa, dịch vụ giáo dục và đào tạo đặc biệt (thị trường không hoàn hảo) là khách quan phù hợp với đặc điểm và bản chất của thị trường, đặc biệt là đối với giáo dục đại học. 3) Hình thành thể chế, cơ chế phát triển giáo dục và đào tạo hiệu quả, thích ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; bảo đảm kết hợp có hiệu quả vai trò chủ đạo của nhà nước với vai trò chủ đạo của cơ chế thị trường và của xã hội; kết hợp hiệu quả vai trò của yếu tố “công” và “tư”; vận dụng và phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. 4) Ngày càng thực hiện công bằng, bình đẳng về cơ hội học tập, các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo, nhất là đối với vùng khó khăn, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách, trên cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 5) Bảo đảm chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc, hiệu quả và chất lượng trong hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. 
  2. Thể chế - Cơ chế phát triển giáo dục trong điều kiện mới Từ những đặc điểm và tính chất của giáo dục - đào tạo, xin nêu thể chế tổng quát phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là: Nhà nước đóng vai trò chủ đạo kết hợp với cơ chế thị trường, cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo và vai trò của xã hội, đảm bảo cho giáo dục - đào tạo phát triển theo định hướng của Nhà nước, có hiệu quả và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, đảm bảo tốt hơn công bằng và bình đẳng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Trong thể chế - cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo này, vai trò, chức năng của các chủ thể được phân định khách quan phù hợp. 1) Vai trò chủ đạo của Nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: (1) - Quản lý Nhà nước về phát triển giáo dục - đào tạo (cả đối với công lập và ngoài công lập), về sứ mạng, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển giáo dục đào tạo, về quản lý chất lượng giáo dục - đào tạo. (2) - Ban hành khuôn khổ pháp lý cho sự vận động, hình thành và phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. (3) - Xây dựng khuôn khổ pháp lý và cơ chế, chính sách cho các cơ sở giáo dục - đào tạo thực hiện cơ chế tự chủ; Định hướng đổi mới và xây dựng mô hình nhà trường năng động, hiện đại, sáng tạo cho thế kỷ. 21. (4)- Là cơ quan cung cấp nguồn lực chủ yếu và lớn nhất cho giáo dục và đào tạo nhưng phải đổi mới phương thức cung cấp để nâng cao hiệu quả đầu tư nguồn lực của Nhà nước và của xã hội. (5) - Ban hành và thực hiện chính sách bảo đảm công bằng, bình đẳng trong giáo dục - đào tạo; ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách. (6)- Ban hành cơ chế, chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo bảo đảm mục tiêu đề ra, với chất lượng và hiệu quả cao. Vai trò chủ đạo của Nhà nước được thể hiện khác nhau tùy theo cấp học và loại hình đào tạo. 2) Vai trò của cơ chế thị trường Vai trò của cơ chế thị trường thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: (1)- Đa dạng hóa các thành phần, chủ thể tham gia phát triển giáo dục - đào tạo, cung ứng hàng hóa và dịch vụ giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học và dạy nghề; (2)- Hình thành thị trường hàng hóa và dịch vụ giáo dục - đào tạo (thị trường đặc biệt - thị trường không hoàn hảo); tạo sự cạnh tranh trong giáo dục - đào tạo. (3)- Đẩy mạnh đổi mới và phát triển mô hình trường học hiện đại - năng động - sáng tạo. Hình thành các loại hình giáo dục - đào tạo, cơ chế hoạt động của giáo dục - cơ sở giáo dục: phi lợi nhuận, vì lợi nhuận, vì lợi nhuận. Tạo lập quan hệ đối tác, hợp tác công tư hiệu quả trong phát triển giáo dục và đào tạo. (4) - Yêu cầu thiết lập sự gắn kết giữa mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo với nhu cầu xã hội; (5)- Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo trong khuôn khổ cơ chế thị trường. 3) Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục và đào tạo Cơ chế tự chủ của cơ sở giáo dục và đào tạo thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: (1)- Bảo đảm định hướng, mục tiêu và chất lượng giáo dục, đào tạo toàn diện mà Đảng và Nhà nước đã đề ra; (2)- Quyền tự chủ trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục-đào tạo. Tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế và nhân sự; tự chủ về tài chính, bảo đảm cân đối thu chi và đầu tư phát triển. Thực hiện quyền tự do, tự chủ học thuật phù hợp với trình độ, hình thức, tiêu chuẩn giáo dục và đào tạo. (3)- Thực hiện trách nhiệm xã hội, trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch đối với cơ quan quản lý nhà nước, người học và xã hội; chuyên nghiệp hóa công tác quản lý cơ sở giáo dục và đào tạo. (4)- Chủ động đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy và đào tạo, thực hiện có hiệu quả hợp tác và hội nhập quốc tế; (5) - Xây dựng mô hình trường học hiện đại, đổi mới của thế kỷ XXI. (6) - Vận dụng đúng, hợp lý, hiệu quả các công cụ của cơ chế thị trường trong quản lý và điều hành nhà trường; thực hiện cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ giáo dục và đào tạo. (7) - Thực hiện chính sách xã hội trong giáo dục - đào tạo. Cơ chế tự chủ thể hiện cao nhất ở cả giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp, ở hai khía cạnh: tự quản và tự do học thuật để sáng tạo khoa học và công nghệ, là một trong những điều kiện tất yếu để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực . 4) Trách Nhiệm của Học Sinh Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trách nhiệm của người học và gia đình có một nội dung mới: (1) - Tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về việc học của mình; (2)- Chịu chi phí học tập (ngoài phần do Nhà nước hoặc xã hội chịu). (3)- Chấp nhận cạnh tranh về nơi học, trường lớp, khóa học, phương tiện tài chính, nơi làm việc, lộ trình thăng tiến... Điều này thể hiện rất rõ trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. 5) Vai trò của xã hội Vai trò của xã hội, trong đó có nhà đầu tư, có ý nghĩa cụ thể hơn, thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau: (1) - Trở thành “đối tác” tích cực của Nhà nước và thị trường tham gia phát triển giáo dục và đào tạo: xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách; tự giám sát quá trình thực hiện. (2)- Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự quan tâm, đầu tư các nguồn lực cho phát triển giáo dục và đào tạo; tham gia cung cấp hàng hóa và dịch vụ giáo dục và đào tạo; thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội học tập. (3)- Tham gia thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá xã hội đối với sự phát triển giáo dục và đào tạo và quản lý Nhà nước; (4)- Có vai trò quan trọng góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thông qua việc tham gia thực hiện các chính sách giáo dục và đào tạo của xã hội. Đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, xã hội (theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các đơn vị sử dụng nhân lực) cũng đóng vai trò rất quan trọng định hướng và đặt ra yêu cầu về chất lượng và cơ cấu đào tạo nhân lực. Trên đây là Thể chế - cơ chế chung liên kết hữu cơ giữa các chủ thể, nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển giáo dục và đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Thể chế này cần được cụ thể hóa bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, giải pháp cần thiết và được vận dụng phù hợp với từng trình độ, loại hình giáo dục và đào tạo, điều kiện phát triển của từng vùng. 3. Vấn đề bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Vấn đề bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo cần được xem xét theo cách tiếp cận sau: Về tổng thể, có thể xây dựng thể chế và cơ chế phát triển giáo dục như đã nêu ở trên. Việc thực hiện có hiệu quả những điều trên là cơ sở để giáo dục và đào tạo phát triển theo định hướng mà Đảng và Nhà nước đã xác định. Trong định hướng chung về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chỉ rõ phải xây dựng cơ chế để phát triển mạnh các dịch vụ công (trong đó có giáo dục, đào tạo) tiếp cận cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế , vận dụng đúng, hợp lý và có hiệu quả những mặt tích cực của cơ chế thị trường phù hợp với đặc điểm của tường lĩnh. Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một mặt cần nắm vững những nguyên tắc chung, định hướng chung nêu trên, đồng thời cần nắm vững những nét đặc thù, đó là: Mục đích của giáo dục - đào tạo là phát triển con người, phát triển văn hóa, “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” nên các tiêu chí, nội dung giáo dục phải phù hợp và phải được coi trọng nhằm phục vụ có hiệu quả mục tiêu. xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. “Sản phẩm của giáo dục” là những con người được giáo dục toàn diện, có năng lực sáng tạo cao, có kiến ​​thức và kỹ năng nghề nghiệp, được giáo dục sâu sắc về văn hóa, đạo đức, lối sống, lý tưởng, tình yêu gia đình yêu quê hương đất nước - lòng tự hào dân tộc, trách nhiệm xã hội... trở thành một chủ thể vững chắc của sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Phát triển nền giáo dục khoa học, tiên tiến, hiện đại, đại chúng, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa thế giới - hội nhập quốc tế. Bảo đảm quyền và lợi ích của mọi công dân trong học tập, bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Đồng thời, quyền, lợi ích và nghĩa vụ của những người tham gia phát triển giáo dục và đào tạo phải được giải quyết hài hòa, hiệu quả. Vấn đề bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo còn được giải quyết trong tổng hòa các mối quan hệ sau: (1)- Giáo dục là một tiểu phân hệ chịu sự chi phối, điều tiết của hệ thống lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước. (2)- Hệ thống giáo dục và đào tạo (công lập và ngoài công lập) thực hiện theo đường lối, chỉ thị, mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước. (3)- Vận dụng hiệu quả những mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của hệ thống trường lớp và hội nhập quốc tế trong phát triển giáo dục và đào tạo. (4)- Quán triệt tốt các quan điểm, xây dựng và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. (5)- Xây dựng môi trường (môi trường xã hội, môi trường nhà trường, môi trường gia đình) thực sự là môi trường giáo dục lành mạnh. Như vậy, chính mục tiêu phát triển quốc gia, định hướng giá trị con người - giá trị xã hội, cũng như hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phát triển đất nước là cơ sở định hướng phát triển giáo dục - hình thức. Đồng thời, định hướng này được cụ thể hóa trong các mục tiêu, tiêu chí giáo dục - đào tạo, thể hiện trong nội dung chương trình giáo dục - đào tạo và phương pháp sư phạm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Cơ sở pháp lý để thực hiện là xây dựng, hoàn thiện thể chế - phát triển giáo dục và đào tạo với hệ thống đồng bộ các luật, cơ chế, chính sách phù hợp. Đổi mới - phát triển - hoàn thiện và nâng cao năng lực của các chủ thể, phân định rõ chức năng của các chủ thể, trong đó có vai trò chủ đạo của nhà nước, vai trò của cơ sở giáo dục phù hợp, phù hợp với từng cấp học, loại hình đào tạo và yêu cầu của thời kỳ mới, trong thực hiện có hiệu quả các chức năng trên là nhân tố quyết định đổi mới thể chế giáo dục và là cơ chế tạo động lực, lực lượng mạnh mẽ cho quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta, nhất là giáo dục đại học.

 

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo