Luật Doanh nghiệp 2020 (LDN) được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 9 ngày 17 tháng 6 năm 2020 biểu quyết đã khắc phục một số hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của LDN cho thấy một số quy định vẫn còn hạn chế và bất cập, chưa thống nhất với các quy định khác trong cùng văn bản và quy định của Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015). Trong bài viết này, ACC tập trung phân tích, chỉ ra những hạn chế, bất cập và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về LDN.
1. Một số hạn chế, bất cập của Luật Doanh nghiệp 2020
Thứ nhất, quy định về xử lý phần vốn góp khi thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn chết là chưa phù hợp với quy định về thừa kế.
Qua nghiên cứu các quy định của LDN cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập như sau. Cụ thể là ở khoản 4 Điều 54 và Khoản 3 Điều 78 LDN
So sánh quy định của LDN về quản lý phần vốn góp trong trường hợp cổ đông của công ty TNHH đại chúng với quy định về thừa kế của BLDS 2015 cho thấy chưa có sự thống nhất. Cụ thể, theo Điều 622 Bộ luật Dân sự 2015: “Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi thực hiện. Nghĩa vụ đối với tài sản không có người thừa kế thuộc Nhà nước”. Như vậy, khoản 4 Điều 54 LDN và khoản 3 Điều 78 LDN không đề cập đến trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản thừa kế. Mặt khác, Điều 622 BLDS 2015 lại không đề cập đến trường hợp tịch thu tài sản. Trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản hoàn toàn khác với trường hợp người thừa kế bị tước quyền hưởng di sản. Nói một cách chính xác hơn, việc tước thừa kế được thực hiện theo ý chí của người lập di chúc, tức là người lập di chúc chỉ định trong di chúc không cho phép một người nào đó được hưởng thừa kế.
Vì vậy, quy định tại khoản 4 Điều 54 LD phải được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo thống nhất với quy định của BLDS năm 2015.
Thứ hai, quy định của LDN về trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV) là chưa phù hợp với quy định về pháp nhân của BLDS năm 2015 và các quy định khác của LDN. Cụ thể, Điều 75 của LDN nêu rõ: “Chủ sở hữu phải mang đầy đủ và đúng loại tài sản đã cầm cố khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Để đảm bảo nguyên tắc trung thực khi kê khai góp vốn khoản 3 Điều 75 LDN quy định: phải đăng ký điều chỉnh vốn đăng ký bằng giá trị vốn thực góp trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày cuối cùng trở đi. mà vốn cổ phần phải được góp đủ. Trong trường hợp này, chủ sở hữu chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết về các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày cuối cùng công ty đăng ký thay đổi vốn cổ phần theo quy định tại Điều này.
Tuy nhiên, cũng trong hoàn cảnh đó nhưng khoản 4, Điều 48 của LDN lại có cách tiếp cận khác, đó là: “Trường hợp thành viên chưa góp hoặc góp chưa đủ số vốn đã cam kết thì công ty phải đăng ký điều chỉnh, vốn đăng ký, tỷ lệ vốn góp của các thành viên bằng số vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn theo quy định tại khoản 2 Điều này. Các thành viên hợp danh chưa góp hoặc góp không đủ số vốn đã cam kết chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn đã cam kết góp và các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày đăng ký thay đổi công ty. vốn cổ phần, vốn góp của các thành viên”.
Ở đây, khoản 4 Điều 48 của LDN sử dụng cụm từ "nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn đăng ký và phần vốn góp của các thành viên". Trong khi đó, khoản 3 Điều 75 LDN lại sử dụng cụm từ “nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn cổ phần lần cuối”.
Nói cách khác, đối với công ty TNHH có hai thành viên hợp danh trở lên, các nghĩa vụ tài chính phát sinh trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn cổ phần thì các thành viên hợp danh của công ty phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết mang.
Sau khi công ty đăng ký điều chỉnh vốn cổ phần theo số thực góp, các thành viên chịu trách nhiệm về số vốn thực góp vào công ty. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, nếu phát sinh nghĩa vụ tài chính trước ngày thứ 30 kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn cổ phần thì chủ sở hữu công ty phải chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Nếu sau 30 ngày kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ số vốn đã đăng ký mà chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không đăng ký thay đổi vốn đăng ký thì chủ sở hữu công ty phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật theo khoản 4 Điều 75 của LDN.
Cụ thể, “chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ tài chính của công ty, thiệt hại do không góp, góp không đủ, góp không đúng hạn vốn cổ phần”.
Tuy nhiên, quy định trên lại mâu thuẫn với quy định về pháp nhân của BLDS 2015. Theo điểm c khoản 1 Điều 74 BLDS 2015 thì tài sản của pháp nhân phải độc lập với tài sản của pháp nhân. người.' người khác. pháp nhân và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình Xét từ góc độ trách nhiệm tài chính của pháp nhân, thành viên của pháp nhân không phải chịu trách nhiệm đối với pháp nhân và ngược lại, pháp nhân không phải chịu trách nhiệm đối với thành viên của mình. Đồng thời, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng được xác định là công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký. Theo LDN, nghĩa vụ góp vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân phát sinh từ khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và tại thời điểm phát sinh nghĩa vụ góp vốn, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân.
Như vậy, khi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân thì các thành viên hợp danh của công ty không phải chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân. Việc quy định chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ tài chính của công ty khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ góp vốn cũng chưa thực sự phù hợp và chưa tương thích với quy định. của pháp luật. quy định của pháp luật doanh nghiệp. Bởi vì, nếu chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên góp đủ số vốn đã cam kết mà công ty kinh doanh thua lỗ thì chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm tối đa bằng số vốn cổ phần của công ty. Do đó, nếu chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không góp đủ hoặc không góp vốn đúng hạn thì chỉ nên yêu cầu chủ sở hữu chịu trách nhiệm tương ứng với số vốn đã cam kết góp vào công ty.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật doanh nghiệp năm 2020
Từ những hạn chế, bất cập đã phân tích ở trên, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của LDN như sau:
Thứ nhất, bổ sung trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản vào Điều 4, Điều 54 của LDN và Điều 3, Điều 78 của LDN. Cụ thể, bổ sung khoản 4 Điều 54 LDN như sau: “Trường hợp phần vốn góp của thành viên là cá nhân chết mà không có người thừa kế thì người thừa kế không có quyền hưởng di sản và quyền hưởng di sản bị loại trừ. hoặc từ chối nhận thế vị thì phần vốn góp này được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự. Sau đó, bổ sung khoản 78 khoản 3 LDN như sau: “Trường hợp chủ sở hữu công ty là thể nhân chết thì người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu công ty hoặc thành viên hợp danh của công ty. công ty. Công ty phải tổ chức quản lý theo loại hình doanh nghiệp tương ứng và đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hoàn thành việc giải quyết việc kế thừa. Trường hợp chủ sở hữu công ty là thể nhân chết mà không có người thừa kế, người thừa kế không có quyền hưởng di sản, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc bị tước quyền hưởng di sản, phần vốn góp của chủ sở hữu sẽ được điều chỉnh theo quy định của pháp luật dân sự”. Việc bổ sung trường hợp người thừa kế không được hưởng di sản thừa kế là để đảm bảo thống nhất với quy định về các trường hợp người thừa kế không được hưởng di sản thừa kế tại BLDS năm 2015.
Thứ hai, quy định lại khoản 4 Điều 75 của LDN để đảm bảo thống nhất với quy định về pháp nhân của BLDS 2015. Đồng thời, sửa đổi khoản 3 mục 75 của LDN thành: “Trường hợp không góp đủ vốn cổ phần trong thời hạn quy định tại khoản 2 mục này thì chủ sở hữu công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn cổ phần bằng giá trị phần vốn thực góp trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn cổ phần, trong trường hợp này chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm theo tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết góp của nghĩa vụ tài chính của chủ sở hữu công ty ra đời trong khoảng thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn cổ phần”.
Việc sửa đổi, bổ sung nêu trên nhằm đảm bảo tính thống nhất với các quy định liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ góp vốn của các thành viên hợp danh trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
3. Kết Luận
Qua bài viết, ACC đã phân tích, chỉ ra một số quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020 còn mâu thuẫn, bất cập bao gồm:
i) Quy định về xử lý phần vốn góp khi thành viên của công ty TNHH chết chưa thống nhất với các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2015;
ii) Quy định về trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chưa có sự thống nhất với các quy định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và chưa thực sự hợp lý;
iii) Quy định về trách nhiệm của người quản lý công ty cổ phần chưa có sự thống nhất. Trên cơ sở phân tích, chỉ ra các hạn chế, bất cập tác giả đã đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020.
Nội dung bài viết:
Bình luận