Lời khai là lời trình bày của bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan tới vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự mà người này đã thực hiện hoặc biết được theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án theo trình tự luật định nhằm giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan. Trong bất kì một vụ án tố tụng hình sự nào việc lấy lời khai của bị can, bị cáo được coi là nguồn chứng cứ phổ biến, gần như là điểm xuất phát, cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, xác minh, thu thập các nguồn chứng cứ liên quan khác. Vậy việc lấy lời khai nhận tội của bị can có được coi là chứng cứ để buộc tội không?
Mời quý độc giả cùng Luật ACC giải đáp vấn đề trên qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý
- Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi 2017)
1. Bị can, bị cáo là những ai?
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung 2017, bị can, bị cáo được quy định như sau:
– Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 60).
– Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 61).
Bị can, bị cáo có khác nguyên đơn, người bị hại?
Nhóm 1: bị đơn, nguyên đơn, bị hại: đây thường là những vụ án dân sự: trong đó bị đơn là người bị kiện, nguyên đơn là người đi kiện, bị hại là người bị gây thiệt hại. trong nhiều trường hợp nguyên đơn trùng với bị hại, có trường hợp không trùng.
Nhóm 2: bị cáo, bị hại, bị can: thuật ngữ này được sử dụng trong hình sự. theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì bị can là người đã bị khởi tố hình sự, bị cáo là người bị tòa án quyết định đưa ra xét xử.2. Lời khai của bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật
Căn cứ Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung 2017 về thu thập lời khai của bị can, bị cáo được quy định như sau:
“Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.”
Bị can, bị cáo là chủ thể của tội phạm nên là người hiểu đầy đủ nhất, sâu sắc toàn diện hành vi phạm tội và vụ án, lời khai của bị can, bị cáo chính là nguồn chứng cứ mang tính chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự: Bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết mình có thực hiện tội phạm hay không và nếu có thực hiện tội phạm, biết rõ về động cơ, mục đích thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan; số phận của bị can, bị cáo phụ thuộc trực tiếp vào kết quả giải quyết vụ án, bởi lẽ, trong trường hợp bị tòa án tuyên có tội, họ có thể bị áp dụng hình phạt hoặc các biện pháp hình sự khác, nên các CQTHTT yêu cầu họ trình bày những tình tiết của vụ án.
Lời khai của bị can là sự trình bày bằng miệng của người đã bị khởi tố về hình sự về những tình tiết của vụ án, được thực hiện trước Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, theo thủ tục do pháp luật quy định.
Lời khai của bị cáo là sự trình bày bằng miệng của người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử về những tình tiết của vụ án, được thực hiện trước Hội đồng xét xử, theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
3. Lời khai nhận tội của bị can có được coi là chứng cứ để buộc tội?
Bị can, bị cáo vẫn có những quyền được bảo vệ theo pháp luật. Cụ thể Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định các quyền như sau:
Theo Khoản 2 Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Bị can có quyền
- Được biết lý do mình bị khởi tố;
Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;- Nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
- Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
- Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
- Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
- Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu;
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.Bên cạnh các quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai, hỏi cung hoặc xét hỏi tại phiên tòa, một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng là phải bảo đảm tính hợp pháp trong biên bản ghi nhận lời khai của bị can, bị cáo là sự hiện diện của người bào chữa trong trường hợp họ tham gia tố tụng.
Để chống oan sai, không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội. Trên cơ sở quy định này, các CQTHTT (Cơ quan tiến hành tố tụng) phải thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác để xác định lời nhận tội của bị can, bị cáo có đúng sự thật hay không. Không được chỉ tập trung áp dụng các biện pháp để kiểm tra bị cáo nhận tội mà bỏ qua việc phát hiện, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác.
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thử tục do Bộ luật này quy định và có bản kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, Lời nhận tội của bị can, bị cáo phải được kiểm tra, so sánh, đối chiếu với các chứng cứ khác của vụ án, nó chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Nội dung bài viết:
Bình luận