Trong tố tụng hình sự, chứng cứ là phương tiện rất quan trọng để chứng minh các sự kiện pháp lý nhằm giải quyết vụ án. Vậy nếu không đủ bằng chứng thì bằng chứng có kết tội được không?
1. Không chứng cứ, chứng minh có tội không?
Trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, người tiến hành tố tụng phải thu thập chứng cứ phục vụ cho việc truy tố và bào chữa. Khi không đủ chứng cứ hoặc không chứng minh được hành vi phạm tội của một cá nhân thì về nguyên tắc phải suy đoán người này không có tội. Bị can, bị cáo không bắt buộc phải chứng minh mình có tội nhưng phải có điều kiện chứng minh mình không có tội.
Để tránh bị xét xử oan, những người tiến hành tố tụng phải sử dụng những chứng cứ được phát hiện, thu thập theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tài liệu thu thập được và chứng cứ được sử dụng phải là chứng cứ hợp pháp đã qua quá trình điều tra, ghi nhận, được kiểm tra, xác minh đầy đủ và phải hoàn toàn tin cậy. Khi ra một quyết định tố tụng kết luận về bất cứ vấn đề nào đó hay toàn bộ mọi vấn đề trong vụ án, người tiến hành tố tụng phải sử dụng tổng hợp mọi chứng cứ, đánh giá khách quan, không xem nhẹ chứng cứ nào.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm và người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Nếu có nghi ngờ về lỗi của bị can, bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về chứng cứ hoặc không có bằng chứng chứng minh về lỗi của bị can, bị cáo thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Hay nói cách khác, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ yếu về việc có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội là ai, có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo thì Tòa án không kết tội bị cáo. Vì vậy, phán quyết của Tòa án phải là một phán quyết có đầy đủ các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa chứng minh bị cáo có tội. Nếu không đủ căn cứ hoặc chứng cứ để chứng minh người đó có tội thì phải triệt để áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội để không kết tội bị cáo và bảo đảm quyền công dân.2. Quy định liên quan đến nguyên tắc “suy đoán vô tội”:
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của tố tụng dân chủ, theo đó bị can được suy đoán vô tội khi không đủ căn cứ để buộc tội hoặc kết tội người đó theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và người đó không bị kết tội một cơ quan tư pháp. phán quyết ràng buộc của Tòa án. Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện rõ tại Điều 13 Hiến pháp 2013 và Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Như vậy, nội dung của nguyên tắc “suy đoán vô tội” được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm mà người đó thực hiện chưa được chứng minh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và chưa được xác định bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật. Bị cáo được coi là không có tội cho đến khi hành vi của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng quy định và chỉ có thể bị coi là có tội nếu bị cáo bị kết tội. Tòa án bắt đầu có hiệu lực.
Nguyên tắc này khẳng định một người phạm tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật và chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền tuyên bản án này. Miễn là không có sự kết tội ràng buộc về mặt pháp lý của Tòa án, bị cáo sẽ vẫn vô tội. Hoặc thời điểm xác định sự vô tội của bị cáo là từ khi Cơ quan tố tụng buộc tội cho đến thời điểm bản án của Toà án có hiệu lực.
Theo quy định trên, thì kể cả khi một người bị tạm giữ, khởi tố bị can, tạm giam, đã được xét xử sơ thẩm và bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thì người đó vẫn không có tội. . Họ được coi là người bị tình nghi, người đã phạm tội, có quyền được suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định thông qua một thủ tục do pháp luật quy định thông qua việc công khai của Tòa án với đầy đủ sự bảo đảm của người bào chữa. người.
Thứ hai, trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đầy đủ và không thể làm rõ căn cứ buộc tội hoặc kết tội theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì phải kết luận bị cáo không phải là không có tội. . Mọi nghi vấn trong quá trình tố tụng phải được giải thích có lợi cho bị cáo. Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra trong ba giai đoạn điều tra - truy tố - xét xử mà ở từng giai đoạn mỗi chủ thể có nghĩa vụ chứng minh tội phạm ở giai đoạn mình chịu trách nhiệm và trách nhiệm chứng minh. Mục đích của việc phát hiện và xử lý là đúng quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội phải được thực hiện theo nghĩa “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn đổ oan cho người vô tội”, bảo đảm quyền và lợi ích của bị cáo.
Thứ ba, trong khuôn khổ nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành công tố phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác minh sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Khi chưa đủ cơ sở và không thể làm rõ căn cứ để khởi tố hoặc kết tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra kết luận (ra quyết định) trả tự do cho người đó. hoặc tuyên bị cáo không phạm tội. Bị cáo không phải chứng minh mình vô tội mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cơ quan tố tụng phải có trách nhiệm chứng minh, xác định rõ căn cứ định tội theo quy định của BLHS; phải bảo đảm xem xét khách quan, đầy đủ các tình tiết của vụ án. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định đình chỉ vụ án khi hết thời hạn điều tra. Trong giai đoạn xét xử, nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo vô tội.3. Ý nghĩa của nguyên tắc “suy đoán vô tội”:
- Suy đoán vô tội là một nguyên tắc có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và quá trình chứng cứ nói riêng; giúp cho hoạt động chứng cứ được tiến hành đúng pháp luật, theo một trình tự thủ tục nhất định và loại trừ những đồ vật nghi vấn, nghi vấn của hành vi phạm tội. Đảm bảo sự cân bằng trong hoạt động tư pháp hình sự giữa bên có quyền lực nhà nước (cơ quan điều tra, truy tố và xét xử) do quyền lực nhà nước nắm giữ và bên yếu thế hơn bị cáo đảm bảo bị cáo không bị phân biệt đối xử.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội còn nhằm hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự; giữ gìn trật tự, tạo điều kiện phát huy và bảo đảm quyền cá nhân, công bằng, khách quan. Đề cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng, bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và quyền lợi của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Suy đoán vô tội có nội dung quan trọng là bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thể hiện bản chất nhân văn của pháp luật dân chủ và pháp quyền là bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, loại trừ vô căn cứ. buộc tội và kết án. 44. Bằng chứng nào được sử dụng để buộc tội?
Chứng cứ là phương tiện chứng minh duy nhất trong vụ án hình sự. Để xác định một người có tội hay không, cơ quan tiến hành tố tụng phải nghiên cứu ghi chép chứng cứ, xác minh tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ và xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án. sự thật, sự thật khách quan để từ đó làm căn cứ buộc tội bị can, bị cáo. Như vậy, việc nhận thức đúng chứng cứ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định có tội phạm hay không. Theo quy định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì nguồn chứng cứ bao gồm: vật chứng; Lời chứng thực và thuyết trình; Dữ liệu điện tử; Kết luận giám định, định giá tài sản; Biên bản khởi tố, điều tra, khởi tố, xét xử, thi hành án; Thi hành án và hợp tác quốc tế khác; Tài liệu và các đối tượng khác. Nguồn chứng cứ phải được thu thập theo quy định của pháp luật, những gì có thật mà không được thu thập theo trình tự, thủ tục quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ giải quyết vụ án hình sự.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 98 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ: Lời khai nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu chúng phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án và nên không lấy lời khai nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Văn bản pháp lý liên quan đến bài viết:
Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Nội dung bài viết:
Bình luận