Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự. Điều này được quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự hiện hành (BLDS 2015).1. Cách hiểu năng lực dân sự của cá nhân?
Theo quy định tại Điều 19 BLDS 2015 quy định về năng lực hành vi dân sự của một người, cụ thể như sau:
“Điều 19. Năng lực hành vi dân sự của người
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực thi quyền, nghĩa vụ dân sự.
Tư cách thể nhân được cấu thành và tham gia hành vi dân sự chỉ có thể đầy đủ, hoàn thiện và độc lập khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bên cạnh năng lực pháp luật dân sự là thuộc tính được pháp luật thừa nhận đối với mọi cá nhân. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề và khách quan pháp luật dân sự của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể tạo ra quyền để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao gồm năng lực tự chịu trách nhiệm dân sự của mình khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự. Cùng với năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự là thuộc tính của cá nhân, tạo thành tư cách chủ thể độc lập của cá nhân trong quan hệ dân sự.
Nếu pháp luật quy định năng lực pháp luật của mọi cá nhân là như nhau thì lại xác định năng lực hành vi của các cá nhân là không giống nhau. Các cá nhân khác nhau có nhận thức khác nhau về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Ý thức và khả năng điều khiển hành vi của một cá nhân phụ thuộc vào ý chí và lý trí, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chính người đó.
Căn cứ vào năng lực nhận thức, điều khiển hành vi và hậu quả của hành vi đó, pháp luật phân biệt các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, khó có tiêu chí xác định năng lực nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của một cá nhân, chính vì vậy độ tuổi của cá nhân được coi là tiêu chí chung nhất để phân biệt các mức độ năng lực hành vi của cá nhân.
2. Thế nào là người mất năng lực hành vi dân sự?
Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. - Hành vi dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật của họ soạn thảo và thực hiện. Mọi vướng mắc pháp lý liên quan vui lòng liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.6162
3. Mất năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại Điều 22 BLDS 2015 liên quan đến trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, cụ thể như sau:
“Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
Đầu tiên. Trường hợp một người do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực thực hiện hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ để tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này hoặc những người có quyền, lợi ích xung quanh hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Hành vi dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải được người đại diện theo pháp luật của người đó lập biên bản và thực hiện.
Khái niệm “mất đi” được hiểu chung là hiện tượng, sự vật hiện có, tồn tại nhưng không còn hiện tượng, sự vật đó nữa. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân cũng là thuộc tính nhân thân của cá nhân và được đầy đủ khi cá nhân đó đến tuổi thành niên. Thông thường, khả năng hành động của một cá nhân chấm dứt cùng với sự biến mất của năng lực pháp luật (tử vong hoặc tử hình bởi tòa án). Tuy nhiên, một người lớn có thể được khai báo bí mật khi họ đáp ứng một số điều kiện với một số quy trình và thủ tục nhất định.
Trường hợp một người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì bị coi là mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 Bộ luật dân sự 2015).
Căn cứ vào kết quả giám định của cơ quan giám định có thẩm quyền, Tòa án có thể tuyên bố một người mất năng lực theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do người đại diện của họ xác lập, thực hiện
Trường hợp vì lý do hậu quả mà họ đã bị tuyên bố mất năng lực hành vi mà không còn tồn tại thì họ hoặc người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề này theo yêu cầu của đương sự sẽ vướng mắc về thủ tục. Theo quy định, khi mất năng lực tố tụng dân sự thì họ cũng mất năng lực tố tụng dân sự, không thể khởi kiện, khởi kiện ra tòa mà phải thông qua hành vi của người có năng lực tố tụng dân sự nên Bộ luật tố tụng dân sự 2015 phải giải quyết vấn đề này.
4. Bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Điều 24 BLDS 2015 quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự, cụ thể như sau:
"Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Trường hợp người nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác gây huỷ hoại tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan, Toà án có thể ra quyết định tuyên bố người đó là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án hạn chế năng lực hành vi dân sự phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc quy định khác của pháp luật có liên quan. 3. Trong trường hợp không còn căn cứ để tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người đó, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Năng lực hành vi của người đã thành niên có thể bị hạn chế theo các điều kiện, thủ tục quy định tại Điều 24 BLDS. Năng lực hành vi của người đã thành niên bị khống chế khác với người chưa thành niên trên 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, mặc dù xét về hình thức thì có vẻ giống nhau. Năng lực hành vi của người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đương nhiên được công nhận là có đầy đủ năng lực hành vi khi đến một độ tuổi nhất định, còn việc hạn chế năng lực hành vi phải thông qua tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự và áp dụng đối với người nghiện ma túy, chất kích thích dẫn đến hủy hoại tài sản của gia đình. Nghiện ma túy và các chất kích thích khác phải là nguyên nhân dẫn đến phá tán tài sản gia đình, việc yêu cầu tòa án tuyên bố hạn chế khả năng hành vi không chỉ thuộc về người có quyền, lợi ích liên quan mà quan trọng hơn là cơ quan, tổ chức hữu quan cũng có quyền nộp đơn đến tòa án, tạo điều kiện tốt hơn để quy định này được thực hiện trên thực tế chứ không chỉ về mặt pháp lý.
Căn cứ vào tình hình thực tế và theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và mức độ đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
Trường hợp không cần tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc tuyên bố một người không đủ năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự kéo theo những hậu quả pháp lý nhất định và tư cách của những người này là người mất năng lực hành vi dân sự một phần.
5. Thế nào là một người khó hiểu và khó kiểm soát hành vi của họ?
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là một chế định mới được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể có những đặc điểm sau:
- Có yếu tố thể chất (khiếm khuyết về thể chất như cá nhân bị câm, mù, điếc hoặc liệt do tai nạn,...) hoặc yếu tố tinh thần (sốc tâm lý,..) làm cho người đó không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất khả năng hành vi dân sự.
- Có việc người đó, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan khởi kiện ra Tòa án.
- Có kết luận giám định pháp y tâm thần
- Tòa án ra quyết định tuyên bố người đó có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, cử người giám hộ và xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
Nếu các căn cứ trên không còn và kết luận giám định pháp y là họ có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi bình thường thì tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó có khó khăn về nhận thức và làm chủ hành vi.
Nội dung bài viết:
Bình luận