Khởi kiện dân sự là hoạt động nộp đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, của tập thể hoặc của người, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Bài viết phân tích khái niệm khởi kiện và làm rõ ý nghĩa của khởi kiện dân sự:1. Quy định chung về khởi kiện dân sự
Khởi kiện dân sự là phương thức để các chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có hành vi vi phạm. Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, tòa án ra quyết định buộc người có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó, góp phần giữ gìn trật tự xã hội, giáo dục pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ Điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện trước Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan Dân số, Gia đình và Trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật Hôn nhân.
cá nhân, gia đình cụ thể. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước về việc mình chịu trách nhiệm.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để được giải quyết trong cùng một vụ án. Nhiều người, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện với người, cơ quan, tổ chức khác về một hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để được giải quyết trong cùng một vụ án. Việc mở vụ kiện dân sự được thực hiện bằng phương thức khởi kiện gửi đến tòa án có thẩm quyền. Yêu cầu được gửi trực tiếp đến cơ quan đăng ký hoặc gửi đến cơ quan đăng ký qua đường bưu điện. Đơn khởi kiện có ghi ngày, tháng, năm nộp đơn khởi kiện; tên tòa án nhận đơn; tên và địa chỉ của người nộp đơn; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có; tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu có; những vấn đề cụ thể mà tòa án cần giải quyết đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; họ và tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc yêu cầu truy tố là có căn cứ và hợp pháp; những thông tin khác mà nguyên đơn cho là cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Người làm đơn là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; Trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên, đóng dấu vào phần cuối đơn. Người nộp đơn phải gửi kèm theo đơn các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Khởi kiện dân sự dẫn đến hậu quả pháp lý là làm phát sinh việc khởi kiện dân sự trước Tòa án. Sau khi nhận được. yêu cầu thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, Tòa án phải xem xét. Nếu việc khởi kiện đáp ứng các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự thì Toà án thụ lý vụ án để giải quyết. Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của cơ quan tài phán khác thì yêu cầu được chuyển đến cơ quan tài phán có thẩm quyền và thông báo cho người nộp đơn. Nếu không đủ điều kiện khởi kiện thì tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện2. Khái niệm khởi kiện dân sự
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Chương II Quyền con người, quyền cơ bản và nghĩa vụ của công dân quy định:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” (điều 14).
Trong các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận thì quyền công dân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhờ đó, công dân được phép hành xử theo một cách nhất định hoặc yêu cầu người khác thực hiện những hành vi nhất định để thực hiện lợi ích của mình. Quyền lực này được đảm bảo bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Bằng việc sử dụng các quyền dân sự, cá nhân và các chủ thể khác có thể thực hiện quyền tự do kinh doanh và các hoạt động hợp pháp khác để tạo ra của cải, tài sản và thu nhập hợp pháp khác nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn lợi ích vật chất và văn hóa của mỗi người. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ các quyền công dân chính đáng này. Vì vậy, BLDS 2015 ghi nhận quyền này và cho phép cá nhân, chủ thể khác chủ động thực hiện các biện pháp tự bảo vệ theo quy định tại Điều 2 của luật này.
Để bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể, Nhà nước quy định nhiều biện pháp, phương thức bảo vệ khác nhau như bảo vệ bằng biện pháp hình sự, bảo vệ bằng biện pháp hành chính… Nhưng đặc biệt hơn cả, trong số các biện pháp bảo vệ quyền dân sự đó là biện pháp khởi kiện dân sự theo trình tự tố tụng dân sự. Thực hiện theo phương thức này, cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bị xâm phạm quyền dân sự có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân sự chấm dứt hành vi trái pháp luật hoặc phải bồi thường thiệt hại hoặc bị xử phạt vi phạm... Như vậy, trong các biện pháp bảo vệ quyền dân sự của nhà nước thì quyền khởi kiện dân sự là một biện pháp hữu hiệu, quan trọng và có hiệu quả cao.
Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp (sau đây gọi là nguyên đơn) khởi kiện dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 186).
Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện về hôn nhân và gia đình trong các trường hợp quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện nếu xét thấy cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước về việc mình chịu trách nhiệm. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng hoặc khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của pháp luật.
Cá nhân có quyền khởi kiện trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình (Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
Với những quy định này, nhà nước chính thức khẳng định quyền khởi kiện dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức thông qua việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác như cơ quan dân sự, gia đình và trẻ em, hội phụ nữ, công đoàn, v.v. khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Có thể nói, quyền khởi kiện dân sự là một quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể. Nó giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước tòa. Việc các chủ thể thực hiện quyền này được gọi là phiên tòa dân sự.
Khởi kiện dân sự là việc cá nhân, tổ chức, cơ quan có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp đưa việc tranh chấp ra trước Tòa án có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.3. Quyền khởi kiện dân sự
Quyền khởi kiện dân sự được quy định tại Điều 161 của Bộ luật tố tụng dân sự và được hướng dẫn chi tiết, cụ thể tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định tại Phần II “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo quy định của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
Điều 161. Quyền khởi kiện
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp (sau đây gọi chung là nguyên đơn) khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, Điều 2 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP quy định cụ thể về quyền khởi kiện đó là:
“Điều 2. Quyền khởi kiện quy định tại Điều 161 của Bộ luật tố tụng dân sự
Khi xét thấy cần khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 164 của Bộ luật tố tụng dân sự và cần phân biệt như sau:
1. Người có đầy đủ năng lực khởi kiện trong tố tụng dân sự có thể tự mình khởi kiện hoặc nhờ người khác khởi kiện thay. Trong phần tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi đầy đủ họ tên, địa chỉ của người đó. Ngoài ra, khi kết thúc đơn, người đó phải ký tên hoặc lấy dấu vân tay. 2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không bị mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động, giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình có quyền tự mình khởi kiện hoặc nhờ người khác làm đơn thay mình để giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng lao động, giao dịch dân sự đó. Trong phần tên và địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ và tên, địa chỉ của người đó. Ngoài ra, khi kết thúc đơn, người đó phải ký tên hoặc lấy dấu vân tay.
3. Đối với người chưa thành niên (trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều này), người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của họ có quyền tự mình khởi kiện hoặc nhờ người khác khởi kiện thay mình. Tại ô tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện hợp pháp của người này. Đồng thời, cuối đơn người đại diện theo pháp luật phải ký tên hoặc điểm chỉ.
4. Đối với những người thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này mà không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình khởi kiện, không thể tự ký tên, điểm chỉ thì có thể nhờ người khác khởi kiện thay mình và phải có người chứng kiến. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện và nội dung đơn khởi kiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực trước mặt người yêu cầu và những người chứng kiến.
“Người làm chứng” trong trường hợp này phải là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ theo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự.
5. Đối với cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có quyền tự mình hoặc chỉ đạo người khác khởi kiện thay mình. Trong phần họ tên và địa chỉ ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Đồng thời, ở cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên, đóng dấu của cơ quan, tổ chức.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức khởi kiện thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức thì phải ghi tên, chức năng của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Mục “Người đăng ký” ở cuối đơn yêu cầu ghi tên cơ quan, tổ chức, chức năng người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức; người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức phải ký, ghi rõ họ, tên của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức ủy quyền cho người khác khởi kiện thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện”, sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, tên và chức năng của người đại diện theo ủy quyền của cơ quan, tổ chức này thì phải ghi giấy ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) và chức danh pháp lý của người đại diện. Tại mục “Người nộp đơn” ở cuối đơn yêu cầu ghi tên cơ quan, tổ chức, ghi thêm dòng chữ “Người đại diện theo ủy quyền”; người đại diện theo ủy quyền phải ký, ghi rõ họ, tên của người đại diện theo ủy quyền và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.
Trường hợp văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân khởi kiện phát sinh từ giao dịch do văn phòng đại diện, chi nhánh xác lập thì tại mục “Tên, địa chỉ của người khởi kiện” sau khi ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, tên, chức vụ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân thì ghi giấy ủy quyền (số, ngày, tháng, năm) của pháp nhân. Tại mục “Người đăng ký” ở cuối đơn cần ghi tên pháp nhân, chức vụ người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân; chữ ký của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân; ghi họ và tên đầy đủ của người đứng đầu văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân. Dấu của pháp nhân hoặc dấu của văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân.
6. Trường hợp xét thấy có đủ điều kiện thụ lý thì việc xác định tư cách của nguyên đơn trong vụ án được thực hiện như sau:
a) Đối với trường hợp hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì nguyên đơn trong vụ án là nguyên đơn;
b) Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà người nộp đơn là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì những người này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự nên người đại diện hợp pháp của họ thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn trước Hội đồng xét xử;
c) Đối với cơ quan, tổ chức hướng dẫn tại khoản 5 mục này thì cơ quan, tổ chức khởi kiện là nguyên đơn trong vụ án. Người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng, thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức là người đó.4. Quy định về Khiếu kiện dân sự
Khởi kiện dân sự là quyền của mọi cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Khi khởi kiện vụ án dân sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức nộp đơn khởi kiện kèm theo các tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp đến Tòa án có thẩm quyền để được giải quyết. Để vụ án nhanh chóng được giải quyết, ngay từ khi khởi kiện, cá nhân, cơ quan, tổ chức không những cần cung cấp đầy đủ các giấy tờ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp mà còn phải viết đơn khởi kiện đúng về cả nội dung và hình thức.
Theo quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự, đơn khởi kiện phải cần đảm bảo những điều kiện sau:
– Về nội dung, đơn khởi kiện phải có những nội dung chính sau:
) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
) Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
) Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
) Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
) Tên, địa chỉ của người bị kiện;
) Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qua, nếu có;
) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghãi vụ liên quan;
) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có.
– Về hình thức:
) Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do người đại diện theo pháp luật của những người này ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người khởi kiện không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì phải có người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực trước mặt người yêu cầu và những người chứng kiến.
) Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan không thể nộp ngay đầy đủ tài liệu, chứng cứ thì người khởi kiện phải nộp luôn bản chính tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu, chứng cứ khác phải do nguyên đơn bổ sung hoặc theo yêu cầu của Toà án khi giải quyết vụ án.
Đương sự có thể nộp đơn khiếu nại trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện. Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn cho Tòa án hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Cá nhân, tổ chức có nhu cầu khởi tố phải hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình cũng như nhiệm vụ mà mình phải thực hiện để việc khởi tố được thực hiện đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp mà người khởi kiện mong muốn được bảo vệ.5. Ý nghĩa của việc khởi kiện dân sự
Khởi kiện dân sự là hành vi đầu tiên của thể nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Không có hành động, không có thủ tục dân sự cho các bước tiếp theo. Tòa án chỉ đồng ý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn yêu cầu của chủ thể. Đặc điểm của phương thức xét xử là trao cho đương sự quyền tự do hành động cũng như quyền tự định đoạt của đương sự là cơ sở của thủ tục tố tụng. Theo đó, khởi kiện là phương tiện để các chủ thể ngay lập tức hành động để bảo vệ quyền dân sự của mình tránh nguy cơ bị xâm phạm, như khởi kiện đòi tài sản, khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi can thiệp trái pháp luật vào việc thực hiện quyền dân sự, khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Với sự hành động kịp thời đó, các cơ quan tố tụng sẽ can thiệp kịp thời, quyền và lợi ích hợp pháp sẽ được bảo vệ, thiệt hại sẽ nhanh chóng được khắc phục, ngăn chặn, chấm dứt các hành vi vi phạm pháp luật, sớm khôi phục lại mối quan hệ thiện chí, cởi mở, hài hòa giữa các bên trong đời sống dân sự.
Bằng phán quyết, tòa án góp phần bảo vệ và củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa, đồng thời nâng cao hiệu quả xét xử, thiết lập chế độ trách nhiệm cao trước nhân dân, môi trường pháp lý an toàn bảo vệ các quyền của công dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Khi hoạt động xét xử kết thúc bằng phán quyết của tòa án thì phán quyết đó phải được mọi người tôn trọng và những người có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Chỉ khi đó các quy tắc và quy định của đất nước mới được tôn trọng và hỗ trợ. Đồng thời, thông qua việc xét xử công khai, tuyên án có căn cứ thuyết phục không chỉ có tác dụng tốt đối với bản thân đương sự mà còn có giá trị giáo dục trong xã hội. Đối với những người thực tế, sự thật được kết luận chính xác, khách quan qua phán xét thì dễ đi vào lòng người và được người dân chấp nhận hơn là chỉ rao giảng lề luật. Khi nhân dân có niềm tin vào pháp luật thì pháp luật là cơ sở để đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật, pháp luật tự nó đi vào lòng dân, trở thành sức mạnh thi hành pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố và tăng cường.
Nội dung bài viết:
Bình luận