Trong hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh thì giám định và định giá có vai trò rất quan trọng, bởi đa số các vụ việc dân sự, mục đích chính các đương sự hướng tới là lợi ích vật chất, nên việc định giá tài sản đúng, phù hợp là chìa khóa để giải quyết tranh chấp và là căn cứ để tính án phí. Tuy nhiên, quy định pháp luật về hoạt động này còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Cùng ACC tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé.

1. Những bất cập trong quy định về kiểm sát hoạt động định giá tài sản
Thứ nhất, quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 về định giá tài sản: Hiện chỉ có 01 điều (Điều 104), còn văn bản hướng dẫn chỉ dừng lại ở trình tự, thủ tục yêu cầu và thành lập Hội đồng định giá, chưa cụ thể về hoạt động của Hội đồng định giá. Trong khi đó, quy định về lĩnh vực giá tương đối phức tạp, bao gồm tổng thể các quy phạm điều chỉnh về giá, với nguồn là Luật giá năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và các văn bản liên quan trong từng lĩnh vực chuyên ngành kỹ thuật cụ thể. Mặc dù theo Điều 104 BLTTDS năm 2015, các đương sự có quyền phát biểu ý kiến về việc định giá, nhưng quyền quyết định cuối cùng thuộc về Hội đồng định giá. Tuy nhiên, sự phức tạp của hệ thống văn bản điều chỉnh về giá ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của thành viên Hội đồng định giá, Tòa án và quan điểm của Viện kiểm sát khi đương sự không nhất trí với kết quả định giá và đưa ra yêu cầu định giá lại. Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định việc định giá lại chỉ được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường. Nhưng căn cứ nào để cho rằng kết quả định giá “không chính xác” lại hoàn toàn phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của Thẩm phán chủ tọa phiên toà.
Thứ hai, về lựa chọn tổ chức thẩm định giá: Theo Điều 104 BLTTDS năm 2015, đương sự có quyền tự thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp, nếu không thỏa thuận được thì có quyền lựa chọn tổ chức thẩm định giá; nếu vẫn không thống nhất lựa chọn được tổ chức thẩm định giá thì có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản. Theo đó, Tòa án chỉ yêu cầu tổ chức thẩm định giá tiến hành định giá tài sản tranh chấp nếu các đương sự cùng thống nhất lựa chọn. Số vụ án các đương sự cùng nhất trí lựa chọn tổ chức thẩm định giá rất ít, do các đương sự không tin tưởng nhau và chi phí phải trả cho tổ chức thẩm định giá cao hơn cho Hội đồng định giá do Tòa án thành lập; một nguyên nhân nữa đó là thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá tối đa không quá 06 tháng kể từ thời điểm chứng thư thẩm định giá có hiệu lực.
Thứ ba, về căn cứ pháp lý và phương pháp định giá: Khoản 1 Điều 12 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 của liên ngành trung ương hướng dẫn thi hành Điều 92 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản (Thông tư liên tịch số 02/2014) quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên Hội đồng định giá tài sản như sau: “… Đưa ra nhận định, đánh giá về tính chất, đặc điểm của tài sản cần định giá; về căn cứ, phương pháp định giá và giá trị của tài sản cần định giá”. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều biên bản định giá, các thành viên đưa ra giá tài sản cần định giá nhưng không thể hiện rõ căn cứ pháp lý, phương pháp định giá, lý do đưa ra mức giá, dẫn đến thiếu tính thuyết phục, đương sự không đồng tình, cho rằng mình bị thiệt hại về lợi ích. Tình trạng này thường xảy ra với những vụ án định giá quyền sử dụng đất, công trình xây dựng và cây trồng trên đất, tài sản là vật dụng sinh hoạt trong gia đình.
Thứ tư, về cách thức xác định giá thị trường. Khoản 5 Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định căn cứ định giá là giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án dân sự. Đây là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp, bởi giá thị trường là một khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế động, khó xác định chính xác, đặc biệt đối với đất đai, nhà ở, chứng khoán, cổ phiếu…
Thứ năm, về vấn đề tính khấu hao tài sản: Có một số loại tài sản bị tiêu hao, không giữ được nguyên giá trị (công trình, vật kiến trúc, phương tiện, máy móc như nhà ở, ô tô, xe máy, đồ dùng sinh hoạt…), mà đương sự đang sử dụng (vẫn đảm bảo công năng sử dụng) lại bị Hội đồng định giá tính hết khấu hao, không còn giá trị.
Thứ sáu, về chi phí định giá: Điều 35 Mục 1 Chương III Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH13 ngày 28/3/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng đã quy định về chi phí định giá tài sản, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về căn cứ để định mức chi phí định giá tài sản. Thực tiễn hoạt động ở tỉnh Phú Thọ khi tiến hành định giá, Thư ký tính toán các khoản chi phí và bồi dưỡng cho các thành viên của Hội đồng định giá thường dao động từ 150.000 đồng - 300.000 đồng/1 người/1 ngày.
Thứ bảy, trong một số vụ án có đương sự không hợp tác, cản trở, gây khó khăn cho quá trình thẩm định, định giá tài sản tranh chấp. Mặc dù BLTTDS năm 2015 quy định về xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại Điều 489 và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 114, nhưng trên thực tế việc áp dụng biện pháp giải quyết vẫn rất khó khăn.
Thứ tám, về quy định, hướng dẫn của ngành về kiểm sát hoạt động định giá. Tại Điều 16 Hướng dẫn hoạt động của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa dân sự sơ thẩm ban hành kèm theo Quyết định số 458/QĐ-VKSTC ngày 04/10/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Hướng dẫn số 458/2019) về kiểm sát việc định giá, thẩm định giá tài sản có nội dung: Kiểm sát viên căn cứ vào Điều 104 BLTTDS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2014 để thực hiện chức năng kiểm sát. Theo đó, Hướng dẫn số 458/2019 vẫn chỉ quy định kiểm sát về quyền tự thoả thuận về giá và lựa chọn tổ chức thẩm định giá của đương sự; trình tự, thủ tục thành lập Hội đồng định giá… Đối với hoạt động của Hội đồng định giá, điểm b khoản 3 Điều 16 Hướng dẫn số 458/2019 có nêu: “Hội đồng định giá đã định giá đầy đủ, chính xác các loại tài sản tranh chấp, giá trị từng tài sản (nếu tài sản là quyền sử dụng đất, giá từng loại đất, vị trí thửa đất…), giá trị còn lại của công trình trên đất, tuổi và giá trị cây trồng trên đất… hay chưa. Kết quả định giá phải phù hợp giá trị tài sản theo thời giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm”.
Do chưa có hướng dẫn cụ thể nên có vụ án Kiểm sát viên nhận thấy giá do Hội đồng định giá đưa ra chưa phù hợp, song còn lúng túng, chưa xác định được biện pháp kiểm sát phù hợp, hoặc không xác định được đối tượng cần kiến nghị là UBND cùng cấp hay Hội đồng định giá.
2. Một số kinh nghiệm
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định Kiểm sát viên được kiểm sát trực tiếp hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, song bằng quan hệ phối hợp, Viện kiểm sát đã cử Kiểm sát viên tham gia hầu hết hoạt động xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Mặc dù Kiểm sát viên không được tham dự vào hoạt động của Hội đồng định giá, nhưng khi trực tiếp tham gia các hoạt động này, Kiểm sát viên có thể nắm rõ hơn thông tin, từ đó đưa ra một số đề nghị, yêu cầu đối với hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho Kiểm sát viên khi đề xuất quan điểm giải quyết nội dung tranh chấp.
Điều 104 BLTTDS năm 2015 quy định: “… Trong trường hợp cần thiết, đại diện UBND cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá”. Tuy nhiên, Kiểm sát viên đều trao đổi và đề nghị Thẩm phán khi tiến hành định giá cần mời đại diện UBND xã, cán bộ làm công tác địa chính để hỏi ý kiến về giá giao dịch, chuyển nhượng tại địa phương. Ý kiến của họ thường chỉ là chứng cứ gián tiếp, nhưng Kiểm sát viên đều đề nghị các thành viên Hội đồng định giá tham khảo, trường hợp cần thiết thì sẽ làm căn cứ để thu thập chứng cứ trực tiếp (như biên bản chuyển nhượng viết tay, biên bản giao tiền của các giao dịch chuyển nhượng trên địa bàn).
Đối với các cơ quan chuyên môn, để nâng cao chất lượng của việc định giá tài sản, lãnh đạo Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Phú Thọ đã trao đổi với lãnh đạo các sở, ngành, phòng, ban chuyên môn, đề nghị cử các cán bộ có kinh nghiệm, năng lực tham gia Hội đồng định giá do Tòa án thành lập; đề nghị chấn chỉnh tinh thần trách nhiệm cho các cán bộ khi tham gia Hội đồng định giá. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân chủ trương tăng cường quan hệ phối hợp giữa các khối cơ quan Viện kiểm sát - Tòa án - UBND trên địa bàn tỉnh; xây dựng quy chế phối hợp trong lĩnh vực dân sự, hành chính gồm: Nghị quyết liên ngành giữa Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân và Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân tỉnh; Quy chế phối hợp giữa Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân - Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân - Ban cán sự đảng UBND tỉnh để thống nhất chỉ đạo 03 khối cơ quan trên địa bàn tỉnh. Điều này đã giúp nâng cao chất lượng công tác giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự và giải quyết khiếu nại, tố cáo, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong quy chế này có nội dung về trách nhiệm của các sở, ban, ngành cấp tỉnh, phòng, ban cấp huyện khi tham gia Hội đồng định giá do Tòa án thành lập.
Ngoài ra, một giải pháp đem lại hiệu quả chính là vận động, thuyết phục các đương sự. Một số vụ án đã được giải quyết dứt điểm sau khi Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên dành thời gian để phân tích, trao đổi với đương sự. Qua phân tích và thuyết phục, các đương sự đã đồng ý và thống nhất với kết quả định giá của Tòa án cấp phúc thẩm nên việc giải quyết vụ án đảm bảo căn cứ pháp lý.
3. Đề xuất, kiến nghị
Một là, tiếp tục hoàn thiện BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành để phù hợp với tình hình xã hội hiện nay; sửa đổi những quy định còn mâu thuẫn, chưa hợp lý, bổ sung, hướng dẫn cụ thể những quy định còn thiếu sót phát sinh từ thực tiễn, tạo thuận lợi cho công tác giải quyết các vụ việc dân sự tại địa phương. Theo đó, cần sửa đổi Điều 104 BLTTDS năm 2015 theo hướng: Giá trị tài sản tranh chấp được tính bằng trung bình cộng của giá do Hội đồng định giá và của các đương sự có mặt tại buổi định giá đưa ra.
Hai là, Nhà nước cần có cơ chế, giải pháp về pháp luật phù hợp đối với hoạt động xây dựng khung giá đất, bảng giá đất của UBND tỉnh, đảm bảo không quá chênh lệch so với giá giao dịch trên thị trường.
Ba là, các cơ quan hữu quan cần ban hành văn bản quy định, hướng dẫn cụ thể về hoạt động của Hội đồng định giá, đưa ra mẫu biên bản định giá. Trong đó quy định Hội đồng định giá phải có căn cứ giải trình về giá đưa ra, tránh trường hợp tùy tiện, chủ quan. Về thành viên của Hội đồng định giá, cần có tối thiểu một thành viên đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành vật giá.
Bốn là, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần phối hợp với liên ngành trung ương để tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động định giá nêu trên, tăng cường công tác chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp vụ. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao cần thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm đối với những vụ việc có vi phạm về định giá để các Viện kiểm sát địa phương nghiên cứu, rút kinh nghiệm, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng xử lý tình huống cho Kiểm sát viên, tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự./.
.Như vậy, trong bài viết này, ACC đã cung cấp tới quý độc giả những thông tin cần thiết liên quan đến Một số khó khăn trong công tác định giá tài sản. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào liên quan đến nội dung bài viết hoặc các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ ngay với ACC để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời nhé!
Nội dung bài viết:
Bình luận