1. Nhập siêu là gì?
Nhập siêu là khái niệm dùng để chỉ tình trạng cán cân thương mại nhỏ hơn 0 (không). Nói cách khác, khi nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu trong một thời gian nhất định, đó là nhập siêu. Nhập siêu là hiện tượng phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường mở.

khái niệm xuất siêu nhập siêu
2. Xuất siêu là gì?
Xuất siêu là khái niệm dùng để chỉ tình trạng cán cân thương mại lớn hơn 0 (không). Nói cách khác, khi xuất khẩu vượt quá nhập khẩu trong một thời gian nhất định, đó là thặng dư thương mại.
Khái niệm xuất siêu và xuất siêu
3. Tác động của xuất siêu và nhập siêu
Theo nhiều cách, nhập khẩu sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế ở một mức độ nào đó, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, thâm hụt thương mại quá cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
CHO SIÊU NHẬP KHẨU:
* Tích cực
- Kinh tế
Đối với nền kinh tế, việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị tiên tiến giúp nâng cao trình độ kỹ thuật, tiệm cận với trình độ phát triển cao của thế giới, tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cạnh tranh cao. Do sản xuất nguyên liệu chất lượng cao trong nước chưa phát triển nên việc nhập khẩu nguyên liệu giúp các nước này thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng vào xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, hàng hóa nhập khẩu tạo môi trường cạnh tranh kích thích sản xuất trong nước bổ sung và phát triển. Nhập khẩu vốn ODA từ các tổ chức tài chính quốc tế có thể nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế.
- Công ty
Đối với xã hội, việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, sản phẩm khoa học, văn hóa cũng góp phần phát triển nguồn nhân lực, nâng cao mức sống của dân cư. Việc nhập khẩu vốn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ giúp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống xã hội.
* Tiêu cực
- Đề cao tư tưởng “ngoại đạo”
Các nhà kinh tế cảnh báo về sự nguy hiểm của thâm hụt thương mại lớn. Chẳng hạn, nhập khẩu tràn lan ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ sẽ dẫn đến lãng phí ngoại tệ, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trong nước. Việc nhập khẩu quá nhiều hàng tiêu dùng sẽ dẫn đến xu hướng “sính hàng ngoại”, khiến việc tiêu thụ hàng hóa trong nước sẽ khó khăn hơn.
- Gia tăng nợ công
Quan trọng hơn, thâm hụt thương mại thường xuyên sẽ dẫn đến cạn kiệt nguồn ngoại tệ, buộc các chính phủ phải tăng nợ bằng cách phát hành thêm trái phiếu. Trong dài hạn, thâm hụt thương mại sẽ dẫn đến tăng nợ công của một quốc gia vì suy cho cùng tất cả các quốc gia đều phải dựa vào xuất khẩu để trả nợ và lãi vay. 3. Yếu tố khủng hoảng
Về mặt này, thâm hụt thương mại có thể gây ra khủng hoảng nợ công như ở Hy Lạp, nước có mức thâm hụt 13,5% GDP (năm 2009), dẫn đầu các nền kinh tế thâm hụt so với GDP. Nước này rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất châu Âu kể từ đầu năm 2010 và đến nay vẫn chưa cải thiện được, dù nhận được các gói cứu trợ từ bên ngoài. Hay như trường hợp của Hoa Kỳ, quốc gia có mức thâm hụt thương mại tuyệt đối lớn nhất (tính theo USD). Mỹ hiện cũng đang trải qua cuộc khủng hoảng nợ công nhưng ở mức độ và sắc thái khác với Hy Lạp. Hiện nước này đã chạm trần nợ công và có nguy cơ vỡ nợ tạm thời nếu Chính phủ và Quốc hội không đạt được thỏa thuận nâng trần nợ công trước ngày 2/8/2011.
Hơn nữa, một số chuyên gia cho rằng thâm hụt thương mại lớn là một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997-1998.
- Gia tăng tỷ lệ thất nghiệp
Một nghiên cứu của Tiến sĩ Alec Feinberg, người sáng lập Citizens for Equal Trade, đã thiết lập mối liên hệ giữa thâm hụt thương mại và tỷ lệ thất nghiệp. Dựa trên số liệu của 25 quốc gia có thâm hụt thương mại và thặng dư thương mại lớn nhất thế giới (giai đoạn 2009-2010), nhóm nghiên cứu của TS Feinberg nhận định tác động tới thị trường lao động của thâm hụt thương mại dao động từ 60-72%. Các quốc gia có thâm hụt thương mại cao có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và ngược lại.
Tiến sĩ Feinberg cũng lưu ý hai trường hợp là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hoa Kỳ là nước có mức thâm hụt thương mại tính theo giá trị USD lớn nhất thế giới với 633 tỷ USD (năm 2010), lớn hơn giá trị nhập siêu của tất cả các nước trong nhóm 10 quốc gia có mức thâm hụt thương mại cao nhất (ngoại trừ Hoa Kỳ). Hoa Kỳ). . Hoa Kỳ có tỷ lệ thất nghiệp là 9,6% (tại thời điểm nghiên cứu). Trong khi đó, Trung Quốc có thặng dư thương mại 296 tỷ USD trong năm 2009 và tỷ lệ thất nghiệp chỉ là 4,3%.
- Áp đảo thị trường chứng khoán
Trang web giải thích về đầu tư InvestOpedia cho biết đối với thị trường chứng khoán, thâm hụt thương mại kéo dài có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Lý giải của InvestOpedia cũng dựa trên hai tác động chính của thâm hụt thương mại: nợ công tăng và khả năng cạnh tranh của hàng hóa quốc gia yếu đi. Nếu trong một thời gian dài, một quốc gia nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn xuất khẩu, quốc gia đó sẽ lâm vào cảnh nợ nần, trong khi hàng hóa trong nước sẽ ngày càng bị hàng hóa nước ngoài lấn át. Theo thời gian, các nhà đầu tư sẽ nhận thấy mức tiêu thụ trong nước suy yếu, một sự phát triển gây tổn hại cho các nhà sản xuất trong nước và cũng làm giảm giá trị cổ phiếu của họ. Thời gian càng trôi qua, các nhà đầu tư càng nhận ra rằng có ít cơ hội đầu tư tốt ở thị trường trong nước và bắt đầu chuyển hướng sang thị trường chứng khoán các nước khác. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đối với thị trường chứng khoán trong nước và khiến thị trường giảm. Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có thể rơi vào trường hợp này.
CHO SIÊU XUẤT KHẨU:
Hai tháng đầu năm 2016, Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại hơn 865 triệu USD, nhưng đóng góp lớn này đến từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo số liệu Bộ Công Thương công bố tháng 2/2016, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam thặng dư 100 triệu USD, giúp cán cân đầu năm thặng dư (thặng dư) khoảng 865 triệu USD. .
Doanh nghiệp trong nước vẫn khó khăn
Trong đó, khu vực doanh nghiệp (DN) trong nước nhập siêu 2,1 tỷ USD và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) kể cả dầu thô xuất siêu 2,9 tỷ USD. TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho rằng trong ngắn hạn xuất siêu là tín hiệu đáng mừng vì tạo thêm việc làm, đóng thuế cho ngân sách, nhưng về lâu dài là “xuất khẩu” khu vực FDI. không ổn định do tỷ lệ nội địa hóa không được cải thiện và nền kinh tế thực chất chỉ là gia công, lắp ráp.
Điểm sáng cho kinh doanh xuất khẩu hàng hóa hai tháng đầu năm là xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản có dấu hiệu phục hồi đạt kim ngạch xấp xỉ 2,95 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm ngoái. năm. Tuy nhiên, theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm tăng 667 triệu USD so với cùng kỳ nhưng kim ngạch của khu vực phi dầu thô FDI lại tăng 806 triệu USD, trong khi khu vực doanh nghiệp cả nước giảm 288 triệu USD, phản ánh tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước còn nhiều khó khăn. Riêng trong tháng 2, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 10,3 tỷ USD, riêng khu vực FDI đạt 7,25 tỷ USD (chiếm 70,38%).
Ngược lại, nhập khẩu nhóm hàng phải nhập khẩu (nguyên phụ liệu cho nhiều ngành sản xuất như thủy sản, ngô, đậu tương, bông sợi, nguyên phụ liệu dệt may, giày dép...) ước đạt 19,95 tỷ USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ , trong khi tốc độ giảm của nhóm hàng phải kiểm soát nhập khẩu và nhóm hàng phải hạn chế tái nhập không đáng kể, thậm chí còn tăng trong cùng thời kỳ.
So với mức nhập siêu hơn 3,54 tỷ USD của Việt Nam trong năm ngoái, thì việc xuất siêu hơn 865 triệu USD trong hai tháng đầu năm là một tín hiệu tích cực. Thặng dư ngoại hối lớn giúp giảm áp lực cầu ngoại hối và giúp tỷ giá giảm bớt căng thẳng trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, nhìn vào số liệu ngày 15/2 của Tổng cục Hải quan, có thể thấy Việt Nam xuất siêu là do kim ngạch xuất nhập khẩu nhiều mặt hàng sụt giảm mạnh - dấu hiệu phản ánh hoạt động sản xuất, thương mại của Việt Nam. Các công ty kém tích cực hơn.
Cụ thể, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa kỳ 1 (15 ngày đầu tháng 2/2016) giảm 48,2% so với kỳ trước. Kết quả này đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu từ đầu năm đến ngày 15/2 chỉ đạt 33,38 tỷ USD, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhập khẩu giảm nhiều hơn xuất khẩu giúp thặng dư thương mại tăng nhưng lại cho bức tranh hoạt động kinh doanh kém khả quan hơn. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực dệt may, điện thoại các loại và linh kiện, giày dép, máy vi tính, thủy sản… đều đạt kim ngạch thấp hơn cùng kỳ năm ngoái hàng trăm triệu USD. Tăng nội địa hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh
Chuyên gia kinh tế - TS Bùi Trinh cho rằng xuất siêu của Việt Nam hoàn toàn đến từ khu vực FDI với những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao như điện thoại các loại và linh kiện, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc các loại chủ yếu được gia công, lắp ráp tại Việt Nam. Do đó, giá trị gia tăng cho nền kinh tế và tác động lan tỏa đến khu vực doanh nghiệp trong nước không đáng kể. Và trong dài hạn, nền kinh tế sẽ tiếp tục xuất siêu nhờ nước ngoài, đến một lúc nào đó họ sẽ chuyển lợi nhuận về nước, và “của để dành, của để dành” của Việt Nam sẽ không còn.
Với làn sóng các công ty FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam để tận dụng các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các công ty trong nước chưa tham gia nhiều vào chuỗi cung ứng, nguồn nguyên liệu cho các ngành sản xuất. công nghiệp gần như giậm chân tại chỗ)…, nguy cơ nhập siêu trở lại và ở mức cao là khó tránh khỏi; Đồng thời, sức ép cạnh tranh từ bên ngoài trong bối cảnh hội nhập khiến doanh nghiệp trong nước thua kém và lấn át so với doanh nghiệp FDI.
Tuy nhiên, đại diện Bộ Công Thương nhìn nhận, việc tham gia các FTA gồm các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), Liên minh kinh tế Á-Âu và Hàn Quốc sẽ giúp ích cho Việt Nam. có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân đối hơn do Việt Nam quá phụ thuộc vào một số thị trường trong khu vực. Và, khả năng gia tăng xuất khẩu trong thời gian tới là rất lớn. Đại diện Vụ Kế hoạch tổng hợp - Bộ Công Thương phân tích, khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực sẽ giúp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Nhờ TPP, các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada... được giảm thuế nhập khẩu về 0% sẽ tạo cú hích cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, giày dép, thủy sản...
Nội dung bài viết:
Bình luận