1. Khái niệm “khách quan” và “chủ quan”
"Khách thể" đề cập đến tất cả những thứ bên ngoài và tồn tại độc lập với các chủ thể hoạt động. Tính khách quan bao gồm những điều kiện, khả năng, quy luật khách quan; trong đó, quy luật khách quan luôn giữ vai trò quan trọng nhất, còn được hiểu là bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng và tính khách quan bên ngoài của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và lĩnh vực tư duy tình dục. Nói cách khác, phạm trù khách quan là chỉ tất cả những gì tồn tại độc lập với chủ thể nhất định, tạo thành hoàn cảnh thực tế và thường xuyên tác động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp và hành vi của chủ thể.
“Chủ thể” bao gồm tất cả những gì cấu thành và phản ánh trình độ phát triển phẩm chất, năng lực của chủ thể. Nói đến tính chủ quan là nói đến nội lực thực sự của chủ thể. Ngược lại, năng lực này luôn biểu hiện ở khả năng tổ chức hoạt động (nhận thức và thực hành) của chủ thể và tiêu chí cơ bản, có tính quyết định để đánh giá năng lực này là sự phù hợp giữa hoạt động, tức là hành vi của chủ thể với điều kiện khách quan. và khả năng phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên, “phạm trù chủ thể” cũng được hiểu là toàn bộ các yếu tố cấu thành phẩm chất và năng lực của chủ thể trong hoạt động nhận thức và khách quan.
Thuật ngữ “khách quan” và “chủ quan” dùng để biểu đạt mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong phạm vi phạm trù xác định. và chủ quan. Ngoài ra, phạm trù khách quan và phạm trù chủ quan không tương đương với phạm trù vật chất và phạm trù ý thức. Vì vậy, “biện chứng khách quan” và “biện chứng chủ quan” được hiểu như sau:
Khái niệm “biện chứng khách quan” dùng để chỉ việc đưa ra cái nhìn khách quan về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng (hay còn gọi là: phép biện chứng của bản chất). Đồng thời, phép biện chứng khách quan là phép biện chứng của bản thân thế giới hiện thực, phép biện chứng của bản thân thế giới tự nhiên và phép biện chứng của hiện thực khách quan.
Khái niệm “ phép biện chứng chủ quan” phản ánh những mối liên hệ, sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào đầu óc con người. Nói cách khác, phép biện chứng chủ quan cũng là phép biện chứng của các khái niệm trong tư duy, và phép biện chứng của các khái niệm là sự phản ánh biện chứng của thế giới hiện thực.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan
Khi phát hiện ra các quy luật phát triển của xã hội, Mác và Ăng-ghen đã chứng minh một cách thuyết phục vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng đối với công trình và kiến trúc thượng tầng. Bằng cách này, bạn ủng hộ cách tiếp cận duy vật đối với vấn đề về mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan.
Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai nhân tố không thể tách rời trong mọi hoạt động của mọi chủ thể. Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, suy cho cùng, khách quan luôn là cơ sở, là tiền đề, giữ vai trò quyết định chủ quan. Bởi lẽ, những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan không những luôn tồn tại độc lập không gắn liền với chủ thể mà luôn buộc chủ thể phải được coi là hàng đầu trong mọi hoạt động, là nguồn gốc của sự phát triển. Mong muốn sinh ra mọi tri thức, tình cảm, ý chí, chủ thể.
Khách quan quyết định nội dung chủ quan và sự vận động của sự biến đổi. Do bản chất năng động vốn có, con người luôn tìm kiếm sự tự do trong mọi hoạt động. Nhưng con người chỉ có thể tự do hành động khi ngày càng nhận thức rõ hơn những điều kiện, khả năng và quy luật khách quan. Thế giới khách quan không được hình thành theo ý chí, mong muốn chủ quan của con người mà ngược lại, ý chí, mong muốn của con người chỉ có thực nếu nó phản ánh sự vận động biến đổi của các điều kiện, khả năng và phản ánh các quy luật nội tại của thế giới khách quan.
Sự khác nhau giữa các chủ thể là ở cơ quan chủ thể nhận thức và hành động. Nhưng giới hạn của sức sống này cũng được xác định một cách khách quan. Khi quy luật khách quan không cho phép, điều kiện lịch sử chưa chín muồi thì chủ thể không thể tự ý đặt ra nhiệm vụ cho mình, không thể tự mình sáng tạo ra mục tiêu và phương pháp. Nói cách khác, mọi hoạt động của con người chẳng qua là sự phản ánh và hiện thực hóa những nhu cầu trưởng thành của đời sống xã hội. Sở dĩ chúng ta cải tạo được hiện thực là do chúng ta đã phản ánh đúng đắn và hành động theo đúng mối liên hệ tất yếu của hiện thực chứ không phải do tưởng tượng chủ quan của chúng ta. Tuy nhiên, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố quyết định thì triết học Mác - Lênin không những không phủ nhận mà còn đánh giá cao vai trò chủ động của chủ thể.
Nói đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong việc cải tạo và chiếm lĩnh thế giới của mình trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn). Bản chất xã hội của con người quyết định nhu cầu và khả năng tổ chức hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, tri thức, ý chí, tình cảm của con người đều phát triển theo hướng ngày càng thích ứng với điều kiện, khả năng thực tế và quy luật khách quan.
Nói cách khác, đây cũng là một quá trình trong đó các yếu tố chủ quan của chủ thể ngày càng trở nên khách quan hơn.
Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa trên những điều kiện khách quan nhất định, nhưng con người sẽ không thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách quan mà ngược lại, họ có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát hiện điều kiện khách quan. Nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định sự biến đổi xã hội khi có điều kiện khách quan.
Cuối cùng, vai trò to lớn của nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ, tuy không xóa bỏ hay tạo ra quy luật khách quan nào nhưng con người có thể vận dụng khả năng chủ quan của mình để điều chỉnh sự tác động của các quy luật khách quan, kết hợp nhuần nhuyễn sự tác động toàn diện của các nhân tố. Luật di chuyển theo hướng phù hợp nhất với mục đích của nó. Sở dĩ như vậy là vì tính tất yếu hoạt động của các quy luật khách quan không mâu thuẫn với sự phong phú của các hình thức và trình tự hoạt động trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mà việc thay đổi những điều kiện đó là khả năng có thật của con người.
Tóm lại, quá trình thực tiễn-nhận thức-thực tiễn là quá trình vô tận, biến đổi không ngừng giữa khách quan và chủ quan, làm cho con người trở thành chủ thể hiện thực của thế giới khách quan. Đây là quá trình biện chứng “khách quan hóa và khách quan hóa khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và “duy ý chủ quan”.
Bình luận