Khách thể trực tiếp là gì trong nhóm tội phạm?

1. Khách thể của tội phạm là gì?

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm. Mọi hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc cố ý gây thiệt hại cho một quan hệ xã hội nhất định đều được luật hình sự bảo vệ. Nếu không gây thiệt hại cho khách thể của quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ hoặc gây thiệt hại do cố ý thì hành vi khách quan không gây hại nên không cấu thành tội phạm.

2. Khách thể trực tiếp của tội phạm

Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm phạm, phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm.
Khách thể trực tiếp của tội phạm trước hết phải là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại, thông qua thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này, tội phạm xâm phạm đến khách thể và khách thể chung của tội phạm. tội phạm.
Có nhiều mối quan hệ xã hội mà tội phạm có thể xâm phạm, nhưng không phải tất cả các mối quan hệ xã hội bị xâm phạm đều được coi là khách thể trực tiếp của tội phạm. Trường hợp nhiều quan hệ xã hội cùng bị xâm phạm (gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại) thì quan hệ xã hội được xác định là khách thể trực tiếp của tội phạm có nghĩa là quan hệ xã hội bị xâm phạm chính là quan hệ xã hội của xã hội đó. tội phạm và mục đích chủ quan của tội phạm thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm của tội phạm.

Ví dụ: Hành vi cắt một sợi cáp viễn thông đang sử dụng vừa gây thiệt hại về tài sản vừa gây thiệt hại về an ninh trật tự viễn thông vì ở đây đối tượng bị tác động là tài sản và cơ sở hạ tầng viễn thông. . Trong hai thiệt hại này, rõ ràng thiệt hại đối với an ninh viễn thông thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của tội phạm. Khách thể trực tiếp của tội phạm này là an ninh viễn thông - một bộ phận của an toàn công cộng. Vì vậy, tội này được xếp vào tội gây nguy hiểm cho trật tự, an toàn công cộng, tội phá hoại công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303 Bộ luật Hình sự) chứ không phải là tội xâm phạm sở hữu. xúc phạm.
Vì vậy, việc xác định khách thể trực tiếp của tội phạm là cơ sở để luật hình sự phân chia tội phạm thành các chương.
Bất kỳ tội phạm có một mục tiêu trực tiếp. Bàn chải tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp của tội phạm. Nhưng cũng có nhiều tội phạm trực tiếp phạm tội hơn. Tức là tội phạm xâm phạm nhiều quan hệ xã hội, thiệt hại đối với một quan hệ xã hội không thể phản ánh hết tính nguy hiểm của tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ ở tổng số thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho các quan hệ xã hội. Vì vậy, không chỉ một quan hệ xã hội mà nhiều quan hệ xã hội đều bị coi là khách thể trực tiếp của tội phạm. Ví dụ: Hành vi cướp tài sản vừa xâm phạm đến quan hệ nhân thân vừa xâm phạm đến quan hệ tài sản. Tính nguy hiểm của tội cướp tài sản chưa thể hiện hết ở việc xâm phạm quan hệ nhân thân hoặc quan hệ tài sản. Tính nguy hiểm của tội cướp giật tài sản chỉ có thể phát huy hết khi có sự vi phạm các quan hệ xã hội - quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân. Vì vậy, quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân là khách thể trực tiếp của tội cướp tài sản.

3. Phân tích ý nghĩa khi nghiên cứu khách thể của tội phạm ?

Hành vi phạm tội, giống như hành động của người khác, nhằm vào một đối tượng, nhưng không làm thay đổi mà gây thiệt hại cho đối tượng đó. Trong luật hình sự, khách thể của tội phạm có mục đích gây thiệt hại được gọi là khách thể của tội phạm.
Do có những cách định nghĩa tội phạm khác nhau nên có thể có những câu trả lời khác nhau cho câu hỏi đối tượng của thiệt hại do tội phạm gây ra là gì.
Trên cơ sở xác định nội dung của tội phạm, pháp luật hình sự Việt Nam khẳng định khách thể nguy hiểm hoặc bị đe dọa của tội phạm là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Quan điểm này được khẳng định tại Điều 1 BLHS - Nhiệm vụ của BLHS và Điều 8 - “Khái niệm tội phạm”.
Trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, nhà nước cũng thiết lập, bảo vệ, củng cố và thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ xã hội nhất định với sự hỗ trợ của các quy phạm pháp luật, bao gồm các quy phạm pháp luật và luật hình sự. Hành vi trái pháp luật nói chung, đặc biệt là hành vi phạm tội là hành vi vi phạm các quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng xâm phạm các quan hệ xã hội đã được thiết lập ở các mức độ khác nhau.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã hội, được bảo vệ bằng các loại quy phạm pháp luật và các biện pháp cưỡng chế khác nhau của nhà nước. Đối tượng bảo vệ của luật hình sự là quan hệ xã hội do nhà nước xác định và được các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ. Một khi các quan hệ xã hội này bị tổn hại (bị hủy hoại hoặc bị đe dọa) đến một mức độ nhất định thì chúng trở thành khách thể của tội phạm. Do đó có thể định nghĩa:
Khách thể của tội phạm này là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm phạm.
Theo BLHS Việt Nam, quan hệ xã hội được coi là đối tượng bảo vệ của luật hình sự là quan hệ xã hội được quy định tại Điều 8 BLHS. Vì vậy, một hành vi bị coi là tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam thì hành vi đó phải là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một quan hệ xã hội cụ thể. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là việc gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến các quan hệ xã hội này đều bị coi là tội phạm trong mọi trường hợp, mà chỉ khi hành vi đó gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Những trường hợp này đã được ghi nhận trong các điều luật thuộc ngành hình sự của BLHS.
Từ đó có thể thấy, khách thể được bảo vệ của luật hình sự và khách thể của tội phạm tuy đều là quan hệ xã hội nhưng có sự khác nhau. Đối tượng bảo vệ của luật hình sự là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Chỉ khi quan hệ xã hội này bị xâm phạm, hành vi xâm hại đó gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội, cần phải coi là tội phạm thì quan hệ xã hội đó mới được coi là khách thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm, nhưng tính chất của hành vi vi phạm là khác nhau. Trong tội gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia (Chương 13 BLHS), khách thể của tội hủy hoại các quan hệ xã hội là xâm phạm các quan hệ xã hội. Nó không xóa bỏ các quan hệ xã hội được luật hình sự chung bảo vệ.
Hành vi phạm tội xâm phạm đến khách thể tội phạm thông qua tác động của chúng đối với các bộ phận cụ thể của quan hệ xã hội. Nó có thể là chủ thể của quan hệ xã hội, nội dung của quan hệ xã hội hoặc khách thể của quan hệ xã hội. Bộ phận quan hệ xã hội bị tác động như vậy được gọi là khách thể của tội phạm.
Do nội dung của tội phạm là thiệt hại hoặc đe doạ các quan hệ xã hội nên khách thể của tội phạm có địa vị đặc biệt trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Nghiên cứu môn hình sự có ý nghĩa về nhiều mặt. Quá trình xây dựng hệ thống pháp luật hình sự cần xác định phạm vi quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Việc tổ chức tội phạm thành các nhóm tội phạm tạo nên các chương của các tội phạm trong Bộ luật hình sự cũng có xu hướng theo các nhóm có quan hệ xã hội có thể là khách thể của tội phạm. Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015, phần lập pháp chủ yếu chia toàn bộ các quy định về tội phạm theo tính chất của quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và tội phạm có thể xâm phạm, và được chia thành 14 chương:
- Chương 13 - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Chương XIV - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người;
- Chương XV - Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do công dân, dân chủ;
- Chương XVI - các tội cưỡng đoạt tài sản;
- Chương XVII - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình;
——Chương XVII—tội cản trở trật tự quản lý kinh tế;
- Chương XIX - Các tội phạm về môi trường;
- Chương XX - Các tội về ma túy;
- Chương XXI - các tội xâm phạm an ninh công cộng, trật tự công cộng;
- Chương xxn - Tội chống trật tự hành chính;
- Chương XXIII - Các tội về chức vụ;
- Chương XXIV - Tội cản trở công lý;
- Chương XXV - Tội làm trái nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và gia đình đối với quân nhân trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu;
Chương XXVI - Các tội phạm chống hòa bình, tội phạm chống loài người và tội phạm chiến tranh.
Trong nhiệm vụ nghiên cứu của luật hình sự, chỉ trên cơ sở nghiên cứu các quan hệ xã hội với tư cách là khách thể bảo vệ của luật hình sự, chúng ta mới có thể nhận thức đầy đủ về tội phản xã hội của tội phạm). Cũng như vậy, việc đánh giá bản chất của mọi tội phạm, mọi nhóm tội phạm không thể tách rời việc nghiên cứu ý nghĩa của các quan hệ xã hội và của các nhóm quan hệ xã hội có thể bị đe dọa.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, nếu khách thể của tội phạm được phản ánh trong cấu thành tội phạm thì đó là điều kiện phải được xem xét khi xác định trách nhiệm hình sự.
Khách thể của tội phạm mặc dù rất quan trọng để xác định tính chất nguy hiểm khách quan của tội phạm nhưng không thể phản ánh đầy đủ tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm. Trong nhiều yếu tố cấu thành tội phạm, khách thể tội phạm chỉ được phản ánh bằng một số đặc điểm của khách thể tội phạm. Khách thể bị hại khi khách thể bị hại chịu tác động của hành vi phạm tội. Vì vậy, trong cấu thành tội phạm không cần quy định trực tiếp khách thể của tội phạm.
Vì vậy, không phải trong mọi trường hợp, việc xác định trách nhiệm hình sự đều cần phải xác định được khách thể của tội phạm. thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại. Vấn đề này chỉ phát sinh khi khách thể của tội phạm được thể hiện đầy đủ trong cấu thành tội phạm. Khi cấu thành tội phạm chỉ phản ánh những đặc điểm riêng của đối tượng chịu tác động của tội phạm thì chỉ cần xác định những đặc điểm đó.

Nội dung bài viết:

    Hãy để lại thông tin để được tư vấn

    comment-blank-solid Bình luận

    084.696.7979 19003330 Báo giá Chat Zalo