1.Hiểu thế nào là hôn nhân thực tế?
Pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện nay không định nghĩa khái niệm hôn nhân thực tế, thay vào đó, quy định về những trường hợp được pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Theo đó, hôn nhân thực tế thường được hiểu là việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, thỏa mãn các điều kiện để được đăng ký kết hôn nhưng không thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, và được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu diễn ra vào thời điểm trước ngày 03/01/1987 (khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP, Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP). Cụ thể, Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn xác định nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, thỏa mãn điều kiện đăng ký kết hôn là trường hợp thỏa mãn đầy đủ các điều kiện sau:
- Điều kiện về nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng:
Nam nữ có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau: Việc tổ chức lễ cưới được thực hiện theo phong tục, tập quán tại địa phương nơi nam nữ sinh sống. Thời điểm được tính là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng là thời điểm mà hai bên nam nữ tổ chức lễ cưới hoặc hai bên chính thức dọn về sống chung với nhau như vợ chồng;
Việc nam nữ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận: Sự chấp thuận có thể được thể hiện rằng hai bên đều biết và không phản đối, nam nữ cùng sống chung với bố mẹ của một bên, nam nữ được bố mẹ hai bên chứng kiến khi dọn về nơi mới sống chung;
Thời điểm nam nữ dọn về cùng chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến: Tổ chức có thể hội phụ nữ tại địa phương xã, phường, tổ trưởng tổ dân phố đại diện cho tổ chức chính quyền tại tổ dân phố hoặc trưởng thôn,...;
Thực tế, nam nữ phải thực sự có chung sống với nhau (như cùng ở tại một nơi), cùng chăm sóc, giúp đỡ nhau mọi mặt trong cuộc sống và cùng nhau xây dựng gia đình (cùng có trách nhiệm chăm lo cho gia đình, cho con cái…);
Quy định này là căn cứ để xác định quyền, nghĩa vụ của nam nữ đối với con cái, tài sản cũng như các quan hệ khác trong hôn nhân. - Điều kiện đăng ký kết hôn
Nam nữ đều thỏa mãn các điều kiện về đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, bao gồm:
Độ tuổi: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
Không thuộc trường hợp không được đăng ký kết hôn: Ví dụ như tảo hôn, kết hôn giả tạo, kết hôn khi đang có vợ/chồng,...;
Không là người bị mất năng lực hành vi dân sự: Việc mất năng lực hành vi dân sự phải theo quyết định của Tòa án nhân dân có thẩm quyền;
Cả hai bên nam nữ tự nguyện đăng ký kết hôn;
Như vậy, hôn nhân thực tế là hôn nhân được pháp luật hôn nhân và gia đình công nhận là hợp pháp nếu như nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước 03/01/1987, thỏa mãn điều kiện để đăng ký kết hôn nhưng không thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời điểm pháp luật công nhận nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng là thời điểm nam nữ bắt đầu cùng chung sống với nhau như vợ chồng, hoặc thời điểm họ tổ chức đám cưới hoặc được người khác/tổ chức chứng kiến hoặc được gia đình hai bên/gia đình của nam hoặc nữ chấp thuận.

hôn nhân thực tế chấm dứt khi nào
2.Hôn nhân thực tế chấm dứt khi nào?
Trước tiên, như đã trình bày, hôn nhân thực tế cũng là hôn nhân mà được pháp luật về hôn nhân và gia đình công nhận là hợp pháp. Do đó, về nguyên tắc, việc chấm dứt hôn nhân thực tế cũng giống với việc chấm dứt các cuộc hôn nhân thông thường khác là phải có Bản án của Tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc khi một trong hai bên nam nữ chết/bị Tòa án tuyên bố là chết (Điều 57, Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014). Tuy nhiên, thực tế đổ vỡ hôn nhân có một số điểm khác biệt cần lưu ý theo quy định tại Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP như sau:
Thứ nhất, điều kiện để được tòa án giải quyết ly hôn
Một trong hai bên phải có đơn xin ly hôn/đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và phải có căn cứ xác nhận thời gian chung sống như vợ chồng với nhau.
Thông tin trình bày trong đơn xin ly hôn/đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn phải thể hiện rõ quá trình hôn nhân, chung sống, ngày tháng năm bắt đầu chung sống. Thông thường, kèm theo đơn phải có văn bản chứng minh việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 do Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của nam, nữ cấp hoặc cấp. phải có căn cứ và giấy tờ chứng minh đã chung sống như vợ chồng (nếu tại thời điểm nộp đơn xin ly hôn họ chưa đăng ký kết hôn). Quyền, nghĩa vụ của nam, nữ được xác định khi nam, nữ được công nhận là chung sống như vợ chồng (kể cả trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày trước 03/01/1987) 01/01/2003). Do đó, việc giải quyết, chia tài sản, con và những vấn đề khác phải theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình về tài sản và quan hệ với con. Thứ hai, kết quả của việc yêu cầu ly hôn là bản án không công nhận hôn nhân.
Tòa án nhân dân chấp nhận cho nam nữ ly hôn bằng bản án không công nhận nam nữ là vợ chồng. Điều đó cũng có nghĩa là nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên yêu cầu tòa án giải quyết việc ly hôn thì thủ tục tố tụng được tiến hành theo trình tự giải quyết vụ án ly hôn. Kết quả giải quyết yêu cầu ly hôn của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo yêu cầu của một bên hoặc theo yêu cầu của cả hai bên là Bản án không công nhận hôn nhân của Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Như vậy, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì hôn nhân chấm dứt khi có bản án của Tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc một trong các bên chết/được Tòa án nhân dân có thẩm quyền tuyên bố là chết.
Nội dung bài viết:
Bình luận