Hội nhập quốc tế hiện nay là gì
Từ quá trình nhận thức về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”…
Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ đề cập đến “quốc tế hóa”, mà không đề cập đến “toàn cầu hóa”. Ngay từ Đại hội Đảng IX, Việt Nam đã nói đến “toàn cầu hóa kinh tế”. Vào thời điểm đó, Báo cáo Chính trị của Đại hội IX đã nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, ngày càng thu hút nhiều nước tham gia; Xu hướng này bị chi phối bởi một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp tác vừa đấu tranh (1). Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ IX và X, Việt Nam đã nhấn mạnh “toàn cầu hóa kinh tế”. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị của Đại hội XI khẳng định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”(2). Đại hội Đảng lần thứ XII (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”(3). Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ XIII (năm 2021) chỉ rõ: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc…”
Cùng với nhận thức toàn cầu hóa, Việt Nam đang từng bước hội nhập quốc tế. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc. an ninh quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường” (5). Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã nâng lên một bước mới trong nhận thức và hành động về hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(6). Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(7).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(8). Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(9). Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Một trong những nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(10). Đại hội XII đề ra chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước… Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”(11). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện và mục tiêu của đất nước trong từng thời kỳ”(12).
Như vậy, từ Đại hội IX đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày càng toàn diện và có vai trò hết sức quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức “quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức “toàn cầu hóa kinh tế” và nhận thức “toàn cầu hóa”. Xuất phát từ thực tiễn “toàn cầu hóa”, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra chủ trương “tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời”. mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay đó là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế”. trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”.
… trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” ngày nay
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng “toàn cầu hóa” đang chậm lại; Một số thậm chí còn nói về “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý kiến này nêu bật xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế giới, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và tranh chấp thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, nguy cơ Mỹ rút khỏi và rút khỏi một số thể chế quốc tế. Do đó, câu hỏi đặt ra lúc này là phải chăng toàn cầu hóa đang chậm lại? Trả lời câu hỏi này là một trong những cơ sở cơ bản để Đại hội Đảng lần thứ XIII hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những năm tới.
Về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành “toàn cầu”, trái ngược với “khu vực” (chỉ liên quan đến một số khu vực địa kinh tế và chính trị nhất định trên thế giới). ), “phe, khối” (chỉ liên quan đến nhóm thế lực trên thế giới), “quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng quốc gia). Xã hội loài người ngày nay cùng với kinh tế thế giới, chính trị thế giới và văn minh nhân loại cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa; đồng thời khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan và không thể đảo ngược. Rõ ràng là mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết hoặc sai sót... trong ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người là gốc rễ của xu thế toàn cầu hóa. Cần lưu ý rằng, quá trình toàn cầu hóa không diễn ra theo kiểu tuyến tính mà có những bước nhảy vọt gắn liền với những cuộc cách mạng của lực lượng sản xuất của xã hội loài người. Có thể nói, trong thời gian tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) nổ ra, nhất định sẽ có một bước nhảy vọt nữa trong quá trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa.
Hoạt động bảo hộ gia tăng trong thời gian qua không có nghĩa là chia thị trường thế giới thành thị trường quốc gia hay thành các phe, khối biệt lập, không làm gián đoạn dòng vốn đầu tư xuyên biên giới, không triệt tiêu các vấn đề toàn cầu nảy sinh trong quá trình kinh tế toàn cầu. phát triển, việc giải quyết đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Có lẽ chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “rào cản” mới về thuế quan và phi thuế quan đối với lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư vốn luôn hiện hữu trong quá trình toàn cầu hóa. Các số liệu thống kê về thương mại và đầu tư thế giới cho thấy rất rõ ràng rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn đang trên đà tăng trưởng.
Sự hình thành của “toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa đã dẫn đến sự ra đời của các thể chế toàn cầu, như Liên Hợp Quốc và các tổ chức trực thuộc Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức Quốc tế. Quỹ Tiền tệ (IMF)... Các thể chế này không phải là “bất di, bất dịch”, cơ chế vận hành của chúng phải thường xuyên đổi mới, cập nhật để đáp ứng nhu cầu của từng giai đoạn phát triển của “tổng thể”. Chính sự thích ứng, sức sống, nâng cao hiệu quả của các thể chế quốc tế không thể và không thể ngăn cản quá trình toàn cầu hóa. Giai đoạn phát triển mới của toàn cầu hóa cùng với sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu dẫn đến những đổi mới, cải cách và cải tổ các thể chế toàn cầu hiện có, và có thể là các thể chế quản trị mới.
Yêu cầu đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
Có thể hiểu, quá trình hội nhập quốc tế của một quốc gia (quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của toàn thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế quốc dân”. "chính trị thế giới" và "văn minh nhân loại". Sự tham gia ở đây diễn ra thông qua các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành khác nhau của “hệ thống”, bao gồm cả sự kết dính hay rút lui của các “tiểu hệ thống” khác nhau của hệ thống. Tất cả những hoạt động này đều là hoạt động chủ động, nhằm: 1- Phát triển đất nước; 2- Khẳng định bản sắc dân tộc; 3- Giành được vị trí thuộc về quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...
Cần loại bỏ suy nghĩ đơn giản nhưng cũng khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là “hội nhập quốc tế” là một hình thức “hợp tác quốc tế” rất phát triển. Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.
Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thứ hai, Việt Nam hiện nay đã tham gia vào mọi mặt của đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội nhập rộng rãi vào thế giới nói chung, nhưng mới ở mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí và vai trò của mình trên một số lĩnh vực nhất định. Quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành khối xây dựng của cả thế giới. Ở giai đoạn này, cần xác định việc giành vị trí, vai trò ngày càng quan trọng trong kinh tế, chính trị thế giới và văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của quá trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về kinh tế, cần đấu tranh để có vị trí trong chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; Ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam thời hậu COVID-19, không thể bỏ lỡ. Để làm được điều này, phải ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”. Trên bình diện chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Tích cực tham gia xử lý hồ sơ quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam trên thế giới; bảo tồn và tôn tạo các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể thế giới; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh chống các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, phản nhân văn... Đặc biệt chú trọng nhân rộng và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, mạng xã hội ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc quảng bá văn hóa và cả trong sự “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội, thậm chí xói mòn các giá trị xã hội, thúc đẩy “mềm”. quyền lực” và cả sự hạn chế “quyền lực mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và gây mất ổn định xã hội... trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản lý. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với MXH, một số quốc gia còn tích cực sử dụng và phát huy vai trò của các kênh thông tin, công cụ quản lý của các phương tiện này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới với truyền thông xã hội chứ không chỉ coi nó như một đối tượng quản lý. Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế luôn đặt ra những vấn đề cần giải quyết về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, trong quá trình hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật quốc gia luôn phải điều chỉnh, sửa đổi, tuy nhiên phải có lộ trình, bước đi thận trọng để vừa tăng cường độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay vấn đề xử lý nguy cơ lệ thuộc thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc chính trị…; hay vấn đề quản lý sự xâm thực văn hóa, quản lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong việc xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu rèn luyện công dân toàn cầu, sự xâm nhập các giá trị xã hội mà không phù hợp với nước ta. ..
Thứ tư, Việt Nam phải tích cực và chủ động tham gia vào công cuộc đổi mới, cải cách, cải cách hoặc kiến tạo các thể chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quốc gia quan trọng.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, ngày càng có nhiều tranh chấp phát sinh. Ngoài các cơ chế quốc tế chung, thế giới còn có các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế chuyên biệt, chuyên biệt mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, tính cấp thiết của quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, quản lý và giải quyết các tranh chấp quốc tế, cùng với việc đào tạo và khuyến khích đội ngũ nhân lực chuyên sâu trong các lĩnh vực này.
Nội dung bài viết:
Bình luận